Tuy cuộc đời ngắn, nhà thơ Hàn Mạc Tử đã để lại một khối lượng tác phẩm rất lớn trong kho tàng văn học Việt Nam:
Một vài nét về tiểu sử nhà thơ Hàm Mặc Tử:
Nhà thơ Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí.
Ông sinh ngày 22-8-1912 tại làng Mỹ Lệ, Đồng Hới, Quảng Bình.
Cha ông là Phạm Chương, trong thời kỳ liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã. Vì vậy, Hàn Mặc Tử đã mang tên khác để tránh bị bắt. Ông đã đi học ở nhiều nơi, bắt đầu từ trường Tiểu học Sa Kỳ vào năm 1920, sau đó là Quy Nhơn, Bồng Sơn vào năm 1921-1923 và Sa Kỳ vào năm 1924. Sau khi cụ thân ông qua đời năm 1926 tại Huế, Hàn Mặc Tử tiếp tục học tập tại trường Pellevin – Huế, do mẹ ông cho học. Năm 1930, ông chuyển đến Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và thôi học. Gia đình ông theo đạo Công giáo và ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Hòa với tên thánh là Phê Rô Phanxicô.
Tính tình của Hàn Mặc Tử hiền lành, giản dị, hiếu học và thích giao lưu với bạn bè trong lĩnh vực văn thơ. Bản thân ông có vóc dáng ốm yếu. Cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn và ký lục, nên gia đình ông thường di chuyển nhiều nơi, làm nhiều nhiệm vụ khác nhau.
Cuộc đời của Hàn Mặc Tử có liên quan đến bốn chữ “Bình”: sinh ra tại Quảng Bình, làm việc cho báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và qua đời tại Bình Định. Hàn Mặc Tử được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, và tất cả đều để lại những dấu ấn trong tác phẩm văn thơ của ông. Trong số đó, có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy và Mỹ Thiện.
Nghệ thuật trong thơ ca Hàn Mặc Tử:
Khi đọc thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc sẽ cảm nhận được tình yêu đắm say của ông đối với cuộc sống, thiên nhiên và con người, một tình yêu khao khát và mãnh liệt đến mức đau đớn. Tập thơ của ông thể hiện sự phóng khoáng, khao khát tràn đầy cảm xúc nhưng cũng đầy những đau thương, qua đó ông truyền tải được cảm xúc bằng cả tâm hồn và thể xác, bằng cả sự điên lẫn sự tỉnh táo, bằng cả mơ hồ lẫn thực tế.
Mặc dù nhiều bài thơ của ông mang khuynh hướng siêu thoát vào một thế giới khác, đó là một hình chiếu ngược lại cho niềm khát khao sống của ông. Nhưng đến cuối đời, giọng thơ của ông trở nên thanh thoát, bình yên hơn. Ông đã chấp nhận trải qua những khổ đau trên trần thế, để rồi về với cõi vĩnh hằng. Biểu tượng của “trăng”, “hồn” và “máu” đã trở thành những biểu tượng nghệ thuật bất biến, xuất hiện liên tục và liên kết trong thơ Hàn Mặc Tử.
Thơ của ông được viết bằng ngôn ngữ Việt Nam thuần túy, được sử dụng một cách sáng tạo và đạt đến một trình độ rất cao, vừa mới mẻ nhưng cũng rất Việt Nam. Mỗi bài thơ của ông đều có cấu trúc chặt chẽ, vận dụng rất trôi chảy và rất mãnh liệt.
Những bút danh của Hàn Mặc Tử:
Nguyễn Trí Trọng đã yêu thích thơ ca từ khi còn rất trẻ. Lúc 16 tuổi, ông bắt đầu sáng tác thơ với bút danh là Lệ Thanh, Phong Trần.
Năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo SàiGon, ông quyết định đổi tên thành Hàn Mạc Tử. Hàn Mạc Tử có ý nghĩa là một chàng trai đứng sau màn rèm lạnh lẽo và cô độc. Sau đó, những người bạn gợi ý ông nên vẽ thêm hình ảnh Mặt Trăng khuyết vào bức màn rèm để thể hiện sự cô đơn của con người trước sự vô tận của thiên nhiên. “Mặt Trăng khuyết” được thêm vào chữ “Mạc”, tạo nên từ “Hàn Mặc Tử” có nghĩa là “chàng trai viết văn bằng cây bút”.
Hàn Mặc Tử bắt đầu sự nghiệp văn học với thể loại thơ Cổ điển Đường luật, sau đó chuyển sang viết thể loại thơ mới lãng mạn. Tác phẩm của ông thể hiện tình yêu đau đớn và phức tạp hướng về cuộc sống thường nhật. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ mãnh liệt, nhưng cũng là một người đau khổ, đấu tranh giữa linh hồn và thể xác. Ông mong muốn được thoát khỏi thân xác để hồn mình bay lên trên bầu trời, nơi không còn đau đớn và đầy hương thơm. Tuy nhiên, ông cũng mong muốn ở lại để bên người mình yêu, muốn trải nghiệm tình yêu trong thế giới phàm trần này. Thế giới thơ của Hàn Mặc Tử được chia thành hai phần đối lập:
– Ông sử dụng hai hình tượng chính là hồn và trăng để viết ra những bài thơ điên rồ và ma quái.
– Những bài thơ trong trẻo, tươi đẹp và đầy hình ảnh lạ thường, phản ánh sự trong sáng và hồn nhiên của cuộc sống.
ĐỒ DA VR360, CÔNG TY SẢN XUẤT ĐỒ DA CÁ SẤU, ĐỒ DA BÒ, ĐỒ DA ĐÀ ĐIỂU, ĐỒ DA CÁ ĐUỐI, ĐỒ DA TRĂN, ĐỒ DA RẮN, ĐỒ DA KỲ NHÔNG – KỲ ĐÀ UY TÍN.
Combo Đồ Da Cá Sấu: Túi + Giày + Ví + Nón + Thắt Lưng
Những sản phẩm ví da cá sấu, túi da cá sấu, thắt lưng da cá sấu… tại Xưởng Sản Xuất Đồ Da Sấu VR360 được chúng tôi trau chuốt tỉ mỉ từ nguyên liệu da loại tốt nhất đến chất liệu chỉ may (da cá sấu, da bò, da đà điểu, da cá đuối…). Chất da cao cấp, thuộc da theo tiêu chuẩn của nước ngoài, với công nghệ thuộc da tiên tiến nên có độ bền cực cao và đa dạng màu sắc, sản phẩm rất bền bỉ với thời gian.
Da cá sấu được ví là “kim cương” trong các loại da, da cá sấu vốn dĩ được sinh ra để chống chịu với sự ăn mòn của tự nhiên và thời gian. Vì được làm từ da cá sấu thuộc nguyên tấm có rất nhiều ưu điểm như: độ bền cực kì vượt trội, sáng bóng tự nhiên, thời gian sử dụng càng lâu thì độ bóng càng nhiều, các hoa văn đặc trưng tự nhiên độc lạ, độ thoáng khí cao, cách nhiệt, không tĩnh điện, dẻo dai, co giãn giúp bề mặt da không bị nứt khi uốn cong hay gấp lại. Vì vậy, đây là nguyên liệu được dùng làm sản phẩm cho các phụ kiện thời trang xa xỉ, đặc biệt có ý nghĩa và sức hút mãnh liệt với nam giới. Nó không chỉ thể hiện sự nam tính, phong cách hơn với các loại da bò, da heo, da đà điểu,…mà còn sự bản lĩnh, đẳng cấp bền và đẹp nhất trong tất cả loại da. Những sản phẩm làm từ da cá sấu như túi da cá sấu, ví da cá sấu, thắt lưng da cá sấu, giá thành của các sản phẩm da cá sấu lại không quá cao chính là món quà hoàn hảo vô cùng ý nghĩa dành tặng cho bậc ân nhân giúp đỡ chúng ta lúc khốn khó cùng cực nhất. Đặc biệt nhất là người thân và đấng sinh thành nuôi dưỡng chúng ta đến tận bây giờ. Tin chắc rằng với các mẫu sản phẩm được làm từ da cá sấu này sẽ là món quà đầy ý nghĩa và trọn vẹn nhất!
Một số các phân biệt da cá sấu thật.
Cầm và cảm nhận bề mặt sản phẩm.
Da cá sấu trơn (phần bụng và phần hông) là phần có độ đàn hồi và co giãn mềm dẻo cực tốt khi làm sản phẩm như bóp/ví, thắt lưng, túi sẽ không bị nứt khi uống cong hay gấp lại, mặt da nhiều lỗ chân lông, độ hút và độ thoáng khí cao cầm vào rất bám và chắc tay. Khi nhỏ một vài giọt nước vào các chỗ vân da sẽ thấy hiện tượng da hút nước và thâm đen chỗ khu vực tiếp xúc nước (khi kiểm tra bằng nước trên da màu sáng dễ thấy nhất, màu đen và nâu đen hơi khó nhận ra).
Da cá sấu gai (gù, gai lưng) cá sấu rất cứng, ấn vào thấy rất chắc chắn, tay của chúng ta cảm thấy đau nhẹ, vì cấu tạo của phần này chủ yếu là sụn và da, không có thịt. Gai từ phần đuôi trở đi thì mềm hơn, dó cấu tạo từ thịt, sụn và da, sụn ở phần đuôi không còn nhiều mà chủ yêu là thịt, nên khi dùng tay nhấn vào cảm giác phần da sẽ bị lõm xuống, mềm hơn phần gù và gai lưng.
Quan sát trực tiếp bằng mắt thường:
Quan sát các đường chỉ nhỏ ở các vân lớn cũng là cách phân biệt da cá sấu thật và da bò giả da cá sấu. Da cá sấu thật khi quan sát kỹ ở các rãnh vân lớn, chúng ta sẽ thấy các vân nhỏ li ti dọc theo vân lớn (giống như chỉ tay của chúng ta), nếu quan sát tại các rãnh mà không thấy những đường chỉ li ti này, chúng ta có thể kết luận ngay đó không phải là da cá sấu thật. Ngoài ra, vân da túi đeo chéo da cá sấu không đều, vì là vân được hình thành tự nhiên, nên các hoạ tiết to nhỏ khác nhau, nếu một tấm da hoặc sản phẩm có vân cá sấu đều nhau thì có thể đó là da bò giả da cá sấu.
Kiểm tra bằng các tác động vật lý bên ngoài (không khuyến khích thử nếu chưa có kinh nghiệm)
Có nhiều cách để kiểm tra sản phẩm có phải là da thật (da tự nhiên từ động vật) hay da giả (da nhân tạo được tạo thành từ cao su), hai cách được sử dụng nhiều nhất là thử thấm nước và thử lửa, khi công nghệ ngày càng phát triển thì việc cắt da để xem lõi bên trong cũng là một cách để kiểm tra, đối với việc cắt da đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm về da thuộc mới nên làm.
Thử thấm nước: nhỏ 1-5 giọt nước lên bề mặt da, nếu là da thật nược sẽ thấm vào bên trong. Có trường hợp nước sẽ không thấm vào trong da: một là tại vị trí nhỏ nước, da liên kết chặt chẽ, mức độ thấm nước chậm và ít nên không thể quan sát bằng mắt thường; hai là da giả, da được làm từ simili (cao su dẻo) sẽ không thấm nước. Lúc này, chúng ta đổi vị trí nhỏ nước, thử nhỏ vài giọt vào các rãnh của vân da, tại đây nước sẽ thấm hút mạnh, có thể quan sát bằng mắt thường thấy nước ngấm vào trong làm da sậm màu, để lâu nước bay hơi thì màu sắc của da sẽ trở lại bình thường.
Thử lửa (không khuyến khích nếu chưa nhiều kinh nghiệm): khái niệm đồ da đốt không bị cháy đã bị làm dụng rất nhiều và bị đánh tráo khái niệm, chúng ta phải hiểu rằng da tự nhiên là da được lấy từ động vật (bò, cá sấu, đà điểu, kỳ nhông, trăn, rắn,…) đều là chất hữu cơ, chúng chỉ được xử lý làm mềm, thuộc màu, khử mùi chứ không thể đốt không cháy. Mọi vật đều có nhiệt độ nóng chảy và da thật cũng vậy, chỉ cao hơn da nhân tạo nên nhiều người lầm tưởng da thật đốt không cháy.
Nếu cả hai loại da đều cháy thì VR360 sẽ chỉ bạn cách phân biệt hiện tượng cháy của hai loại da này. Da thật khi cháy sẽ có hiện tượng kết tủa rắn (các chất hữu cơ khi cháy sẽ co lại, tạo thành cục màu đen), có mùi khét, giống với mùi tóc khi đốt. Tuỳ vào cấu tạo của loại da động vật được lấy đi thuộc, vị trí đốt sẽ đen và tính chất gần giống như than củi, bạn sẽ thấy bụi mịn nhưng lẫn cặn tại vị trí đó. Da giả khi cháy sẽ có hiện tượng kết tủa lỏng (các chất hoá học khi phản ứng với nhiệt độ sẽ nóng chảy), mùi khi đốt sẽ có lẫn ca su, giống với mùi khi đốt các túi nilon (hiện tượng giống với đốt da giả). Cũng tuỳ vào hàm lượng các chất hoá học có trong da giả, sẽ khiến da sẽ nóng chảy hoặc co lại nhưng không tạo thành cục, chỉ khi kết thúc quá trình đốt và để nguội thì mới tạo cục.
Hướng Dẫn Cách Sử Dụng Và Bảo Quản Sản Phẩm Da Cá Sấu Đúng Cách
Mặc dù da cá sấu được ví là loại da “kim cương” nhưng nếu sử dụng sai cách cũng sẽ làm giảm đi tuổi thọ của sản phẩm một cách nhanh chóng, dưới đây là một số cách mà VR360 sẽ giúp bạn bảo quản sản phẩm của mình được tốt và lâu bền hơn:
– Không được để sản phẩm đồ da cá sấu bóp ví túi xách da cá sấu , thắt lưng… của bạn tiếp xúc trức tiếp với ánh nắng mặt trời hoặc những nơi có nhiệt độ cao trong thời gian dài, việc sử dụng sản phẩm ngoài nắng không ảnh hưởng quá nhiều tới màu sắc của sản phẩm, nhưng khi phơi nắng sản phẩm, màu sắc thuộc da dễ bị nhạt màu.
– Tuyệt đối không tiếp xúc với nước, hoặc để ở những nơi có độ ẩm cao để lâu ngày sẽ bị ẩm mốc có mùi rất khó chịu, khi sản phẩm bị ướt phải được làm khô và đánh lại sáp chuyên dụng cho da cá sấu để đề phòng bị mốc và tăng độ bền cho sản phẩm.
CHẾ ĐỘ BẢO HÀNH TẠI ĐỒ DA CÁ SẤU VR360
– Bảo hành da trọn đời 3K: không bong, không tróc, không nổ. Lưu ý: không bảo hành do hao mòn khi sử dụng. Không phục hồi da và màu sắc như hiện trạng ban đầu. – Bảo hành phụ kiện 6 tháng, sửa chữa và thay thế miễn phí. Sau 6 tháng có tính phí tuỳ theo phụ kiện sửa chữa hoặc thay thế. – Đánh bóng làm sạch miễn phí trọn đời. Phủ màu và vệ sinh tổng quát có tính phí (giá tuỳ theo sản phẩm).
Chính sách bảo hành áp dụng cho tất cả sản phẩm được bán tại Đồ Da VR360 (trừ dây đồng hồ và các sản phẩm không làm từ da), các sản phẩm ngoài đều tính phí. Quý khách hàng khi đến bảo hành vui lòng đọc số điện thoại để nhân viên kiểm tra thời gian bảo hành.
Hiện tại ĐỒ DA VR360 chỉ có duy nhất một cửa hàng tại địa chỉ 1352 Trường Sa, Phường 3, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, trang web chính thức có tên miền https://tuidacasau.vn/. Mọi cửa hàng và trang web khác đều không thuộc Đồ Da VR360, chúng tôi không chịu trách nhiệm khi khách hàng mua sản phẩm kém chất lượng tại các cửa hàng giả mạo.
Cám ơn quý khách đã tin tưởng và ủng hộ Đồ Da VR360 suốt thời gian qua.
Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tác giả Hồ Chí Minh với tác phẩm Chiều tối bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Từ ấy - Tố Hữu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Lai Tân - Hồ Chí Minh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Nhớ đồng - Tố Hữu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Nguyễn Bính gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tương tư - Nguyễn Bính bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Anh Thơ gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Chiểu xuân - Anh Thơ bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Pu-skin gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tôi yêu em - Pu-skin bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả R.Ta-go gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Bài thơ số 28 - R.Ta-go bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Sê-khốp gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Người trong bao - Sê-khốp bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Hu-gô gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Hu-gô bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Phan Châu Trinh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Nguyễn An Ninh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức - Nguyễn An Ninh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Ăng-ghen gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Hoài Thanh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tràng giang - Huy Cận bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Huy Cận gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Vội vàng - Xuân Diệu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Xuân Diệu gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Hầu trời - Tản Đà bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Tản Đà gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tìm hiểu tác giả Phan Bội Châu gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học.
Hàn Mặc Tử (1912-1940), người đi qua thơ Việt Nam "như một niềm kinh dị". Tác phẩm chính: Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1942), trong đó có một phần lấy từ các tập thơ chưa in khi tác giả còn sống: Xuân như ý, Thơ điên v.v...
Trong bài thơ Thương ngô trúc chi ca số XIII, Nguyễn Du từng tả cây liễu "Tối điên cuồng xứ tối phong lưu" (dịch nôm: lúc càng điên càng đẹp, khiến người ta say mê).
Chỗ xứng đáng để đặt câu mang tinh thần hiện đại ấy có lẽ là một phòng tranh nào đó của các họa sĩ lớn thế kỷ XX.
Nhưng cũng sẽ rất thích hợp nếu người ta dùng nó, cái quan niệm mỹ học phóng túng đó, để soi sáng cho một hiện tượng kỳ lạ của thi ca Việt Nam: những tập thơ Gái quê, Đau thương, Xuân như ý... của Hàn Mặc Tử.
Không kể thơ cổ điển mà ngay thơ Việt Nam hiện đại cũng có cái giọng thiên về chừng mực. Với phong trào Thơ mới, tâm hồn dân tộc đã làm một cuộc bộc bạch khá cởi mở, ở đó, cùng lúc người ta bắt gặp cái say đắm nồng nàn của Xuân Diệu, những phút giây ngà ngà ngơ ngẩn ở Lưu Trọng Lư, những phen chuếnh choáng lảo đảo cố ý ở Vũ Hoàng Chương. Nhưng bằng ấy sự say sưa đều dừng lại khá xa trước ranh giới sự điên dại. Chỉ riêng có một mình Hàn Mặc Tử - do những may mắn ngẫu nhiên mà cũng là những bất hạnh trời đầy, như mọi người đều biết, xui khiến - đã phiêu lưu vào khu vực ấy, khu vực của những kích động tình cảm lên tới cùng cực, khu vực của những mê man quyến rũ gần như mất trí. Và trước mắt chúng ta là một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với ai hết.
Trung thành với một tập quán đã thành truyền thống, ở Xuân Diệu, Huy Cận cũng như ở nhiều người khác, thi sĩ bao giờ cũng hiện ra như một người tinh tế, dịu dàng, chỉ sợ mỗi cử động mạnh của mình làm kinh động cả đất trời. "Tôi với người yêu qua nhè nhẹ - Im lìm không dám nói năng chi" (Trăng - X.D) hoặc "Chân bên chân hồn bên hồn yên lặng" (Đi giữa đường thơm - H.C). Đến Hàn Mặc Tử, thì cách nói, cách tiếp nhận đời sống khác hẳn, người làm thơ không có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng, sống sượng thậm chí bệnh hoạn cũng không quản ngại. Người quen tìm thấy ở thơ một sự ru rín vuốt ve, một lời vỗ về thông cảm hẳn không thể chịu được khi thấy ở đây thơ rặt một giọng "ái tình bắt đầu căng", "Ô hay người ngọc biến ra hơi" và cả "Khi hương thơm kề lỗ miệng - khi tình mới chạm vào nhau". Trong thơ Hàn Mặc Tử, gió heo may cũng rên xiết, thu héo nấc thành những tiếng khô, và những cây cối mảnh khảnh cũng run lên cầm cập. Đi ngược với quan niệm về sự tế nhị, trong thơ Hàn Mặc Tử, những từ ngữ có liên quan đến động tác của cái miệng luôn luôn được sử dụng, nhà thơ rất hay nói đến máu huyết.
Sau khi bảo mình "thường giơ tay níu ngàn mây - đi lại lang thang trên ngọn cây", sau khi thú nhận "
Thật ra, một người điên không bao giờ biết mình điên, không bao giờ nói to lên rằng theo sự đánh giá thông thường, thì mình bị coi là đã hóa dại rồi. Chẳng qua, Hàn Mặc Tử buộc phải "gào lên, rú lên" như vậy mới nói hết ý mình. Trên đại thể, nhà thơ Việt Nam mất từ 1940 này có thể kí tên sau những phát biểu kì lạ sau đây của một người đương thời với chúng ta và chỉ mới mất đầu 1989 - họa sĩ Tây Ban Nha vĩ đại Salvador Dali.
- Tôi chỉ khác những người điên ở chỗ tôi không điên.
- Mọi hành động sáng tạo đều là hành vi của chứng hoang tưởng tự đại. Nghệ sĩ chẳng khác gì thượng đế. Với động tác của bàn tay họ, họ sáng tạo ra các thiên thể và bản thân họ cũng trở nên một thiên thể. Hành động sáng tạo bao giờ cũng là một hành động mạo hiểm.
So với những thi sĩ đương thời, có một đóng góp của Hàn Mặc Tử mà không ai phủ nhận được là đóng góp vào việc mở rộng biên giới của thơ. Dù có xôn xao chộn rộn trong những tưởng tượng phong phú đến đâu thì những Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vẫn còn nặng nợ nhiều với cuộc sống trần tục. Không ai dám mê man đi trên con đường tới cái hư vô như Hàn Mặc Tử, đúng hơn không ai buộc phải làm vậy. Về phần mình, vốn nặng cảm giác tôn giáo lại được sự điên dại hỗ trợ, Hàn Mặc Tử sống với thế giới siêu hình một cách tự nhiên đến mức ông bảo "hư thực làm sao phân biệt nổi". Tiếng thơ trong Đau thương, Xuân như ý đôi khi phải gọi là "lời năn nỉ của hư vô" mà chỉ Hàn Mặc Tử mới nghe được. Nhưng đây mới là một phía, phía thứ hai của biên giới cảm xúc cũng được Hàn Mặc Tử mở rộng: nhà thơ lạ hóa ngay chính mình. Chân tay thân thể da thịt con người, những thứ tưởng ai cũng thấy, những thứ không ai để ý vì chẳng có vẻ gì nên thơ, trong con mắt Hàn Mặc Tử, bỗng trở nên thiêng liêng bí mật. Chúng luôn luôn mời mọc kích động, chúng làm nhà thơ nôn nao cả lên, bỡ ngỡ như gặp được cái gì cả đời mới thấy. Đọc đi đọc lại những "Trăng đang nằm trên cỏ - Cỏ đưa trăng đến bờ ao - Trăng lại đẫm mình xuống nước - Trăng nước đều lặng nhìn nhau - Đôi ta bắt chước thì sao?", những "ống quần xo xắn lên đầu gối, - Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình", những "Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm - Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe", người ta có thể bảo là sống sượng quá. Nhưng thành thực với mình một chút, phải nhận những câu thơ gợi nhục cảm đó chỉ phóng to lên những rung động mà ta vốn có, chẳng qua ta gạt ngay đi, thành ra ngỡ như chúng không tồn tại. Chính Hàn Mặc Tử cũng từng bị giam hãm trong vòng cương tỏa của thói quen, ông cũng là người bị mặc cảm đè nặng và nhiều câu thơ buột ra như là một sự dứt bỏ, tự giải phóng, nếu không làm sao cái cảm giác bẽn lẽn ngượng ngập, thèm khát sự trong trắng lại thường xuyên đi về trong thơ ông đến vậy.
Khi cho mỗi người đọc cảm thấy rằng sự e lệ ở mình cũng như ở mọi người chẳng qua là một sự e lệ rất tà tâm, quả thật Hàn Mặc Tử đã tiếp cận với nhiều cách hiểu tinh vi về con người hiện đại.
Không có gì thực hơn, gần gặn hơn mà lại hư vô hơn với mỗi kiếp người là cái chết. S. Dali từng kể là ông không ngừng nghĩ đến nó, ông coi nó là bạn đường trung thành nhất của ông, nó ở ngay trong nội tâm ông. Rồi họa sĩ nói tiếp: "Cái chết vận hành trong tôi, không ngưng nghỉ, giống như cát chảy trong đồng hồ cát". Ông hiểu rằng "có một sự hủy diệt tuần tự xảy ra trong đó" bởi vậy, với ông, cuộc sống "lại tỏ ra đẹp đẽ hơn bao giờ hết". Tưởng như những lời thú nhận đó của Dali được viết để cắt nghĩa những câu thơ viết về cái chết đầy rẫy trong thơ Hàn Mặc Tử, nhất là ở những tập ông biết rằng ngày tận thế của mình không xa nữa. Có điều lạ nữa là cái chết hiện diện ngay cả trong những câu thơ Hàn Mặc Tử viết về vẻ đẹp. ở vào ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết, vẻ đẹp trong thơ ông là một vẻ đẹp lạnh, ma quái nhưng lại hết sức quyến rũ, giống như sự bùng nổ mạnh mẽ của những gì sắp tàn lụi mà người ta biết là không sao cưỡng nổi. Ai đó đã than: "Phải vì tất cả đều đang đi đến cái chết, nên tất cả mới hiện lên rực rỡ đến thế?!"
Theo Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 cho biết, ngay từ 1940, Xuân Diệu đã từ chối thẳng thừng Hàn Mặc Tử và bản thân Hoài Thanh cũng cảm thấy rằng chỉ nên nói về Hàn Mặc Tử một cách dè dặt. Sự từ chối đó, sự dè dặt đó là rất thành thực. Đặt trong hoàn cảnh thơ Việt Nam trước 1945, phải thừa nhận thơ Hàn Mặc Tử là một cái gì độc đáo vượt ra ngoài thói quen cảm nhận thông thường như tranh của những S.Dali, H. Miro, J. De Chirico... khi mới xuất hiện đã là không bình thường và ngay ở châu Âu cũng phải rất lâu mới được chấp nhận. Tuy nhiên, khoa nghiên cứu nghệ thuật hiện đại cũng đã chứng minh rằng những tìm tòi lúc đầu bị coi là phi lí, trừu tượng đó đã có mầm mống từ lâu trong tư duy của nhân loại. Ngay từ thời trung thế kỉ, có một họa sĩ Hà Lan là Jerome Bosch (khoảng 1450/ 1460-1516) đã vẽ nên những bức tranh rất gần với Dali, Miro. Nói như một nhà văn Nga, ông V. Tendriakov thì trong Bosch "vẻ dịu dàng ở cạnh phút hấp hối, nét trinh bạch ôm ấp sự trụy lạc, cảm giác hứng khởi xen lẫn cơn tởm lợm, khiến người xem tranh của Bosch vừa sảng khoái vừa ớn lạnh". Khi đã xem tranh của những Dali, Miro và lần về tới Bosch như thế, người ta không có lí do để nói rằng Hàn Mặc Tử cô đơn nữa.
Hàn Mặc Tử trong sự so sánh với
các thi sĩ đương thời - Xuân Diệu, Huy Cận,
Những năm gần đây, báo chí đã đăng tải nhiều bài phê bình - nghiên cứu có giá trị về thơ Hàn Mặc Tử. ở đây chúng tôi chỉ nói thêm về cái độc đáo của nhà thơ này.
Cần nói ngay là theo chúng tôi, phần tiêu biểu trong Hàn Mặc Tử không phải là những Tình quê, Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ; cái đó cũng là Hàn Mặc Tử, lại là thơ rất hay nữa, nhưng không phải tinh chất của tác giả, như những Bẽn lẽn, Trăng tự tử, Trăng vàng trăng ngọc, Hồn là ai, Đêm xuân cầu nguyện... nói chung là các bài trong Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí... Phần thơ tôi nói ở đây ít được tuyển chọn, không được mang cho học sinh học, không được ngâm véo von trên ti vi, trên đài, nhưng lại là những gì chỉ Hàn Mặc Tử mới viết nổi, nên cũng là phần gợi ra suy nghĩ và cần mang ra so sánh.
Theo Hoài Thanh, đương thời Xuân Diệu là thi sĩ có bộ y phục tối tân hơn cả. Tác giả Thơ thơ được coi là mới nhất trong các nhà Thơ mới và chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu.
Đấy là những nhận xét chính xác với nghĩa: nếu như có một khuôn khổ thì Xuân Diệu đã đi đến hết khuôn khổ đó. Còn nếu so sánh với Hàn Mặc Tử thì có thể nghĩ khác. Hàn Mặc Tử vượt ra ngoài cái khuôn khổ thông thường, khiến người ta ngán luôn, không muốn nói tới nữa. Hàn Mặc Tử tự nhận: "Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ? Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật". ở Xuân Diệu, không có cái bí mật ấy để mà phản bội. Cùng lắm Xuân Diệu mới đắm say, chứ chưa mê man đến mất trí như nhà thơ bị trọng bệnh. Cảm giác về trăng trong Xuân Diệu kể cả khi đó là cái thứ "lung linh bóng sáng bỗng rùng mình" hoặc "trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết" vẫn là loại cảm giác thông thường. Còn trăng trong Hàn Mặc Tử thì ma quái, thoắt thế này, thoắt thế khác. Hình như cả trong thơ phương đông lẫn phương tây, chưa ở đâu trăng lại được mô tả lẫn với máu huyết và lai láng, nhày nhụa như trong các bài thơ Hàn Mặc Tử làm khi đau ốm. Lại nữa, trăng ở đây ít nhiều thường có quan hệ với nhục cảm. Trăng khêu gợi thèm muốn. Giữa trăng và đối tượng để người ta chung chạ ân ái như là có sự hóa thân, đắp đổi. Trăng đồng lõa, xúi bẩy, trăng lại hứa hẹn là sẽ che chở thậm chí sẽ ban tặng thêm khoái cảm nếu cơn chung chạ đó xảy ra.
Có một thời, mỗi khi muốn bảo Xuân Diệu là quá tây, người ta lại dẫn ra bài Vội vàng với câu kết:
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Giả thử được xếp lẫn vào thơ Hàn Mặc Tử, câu thơ đó không gợi ra phản ứng gì đặc biệt. Nó còn tế nhị và lành mạnh quá, trong khi thơ Hàn Mặc Tử còn sống sượng và bệnh tật hơn nhiều.
Xuân Diệu mới cảm thấy cái lạnh buốt ở chung quanh. Hàn Mặc Tử nhập vào, trở thành chính cái lạnh đó.
Hồn thơ Xuân Diệu như một con diều bay lên thanh thoát, còn cái dây nối con diều đó với đời sống thơ mỏng manh nhưng bền chắc. Hãy nhớ lại Buồn trăng. ở trên vừa mới Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió, ở dưới đã Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya. Với câu kết ấy, ta cảm thấy sau khi ngang dọc khắp vòm trời, con diều - ở đây là tâm tưởng nhà thơ - lại hạ cánh an toàn xuống mặt đất, điều đó chứng tỏ Xuân Diệu rất tài, và cái việc ông làm thật đáng kính trọng. Còn tâm linh của Hàn Mặc Tử thì luôn luôn như một con diều đứt dây khi quay cuồng, lồng lộn, lúc ủ rũ tìm nơi giải thoát. Xuân Diệu chưa thật bao giờ rõ là mình như khi nhân danh người kĩ nữ mà nức nở: "Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo". Xin đừng có ai chờ đợi một tiếng kêu như thế ở Hàn Mặc Tử, bởi qua thơ người thi sĩ này, thấy toát lên cái ý: miễn là còn được sống, được tồn tại, giá lạnh không có gì đáng sợ. Vả lại trong bất cứ nỗi sợ nào, trong bất cứ mất mát nào cũng có niềm sung sướng kỳ lạ, không ai có thể chia sẻ. Đứng về lịch sử thơ ca mà xét thì Hàn Mặc Tử, trong những tìm tòi của mình, đã đi khá xa so với Xuân Diệu. Trong tác giả Thơ thơ, người ta cảm thấy ảnh hưởng của Baudelaire, dấu vết của de Noailles, và cả Rimbaud lẫn Verlaine (họ đều là những tác giả lớn của văn học Pháp cuối thế kỷ XIX). Chính Xuân Diệu cũng thú nhận là có ý thức đón nhận những ảnh hưởng đó. Còn Hàn Mặc Tử - không biết có phải là ngẫu nhiên chăng - phần nào đã đến gần với A.Breton, P.Eluard, L.Aragon. R.Desnos v.v... những người cùng đứng trong một phong trào thơ ở Pháp, có tên là siêu thực, và xuất hiện khoảng trước sau đại chiến thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, đấy là một phỏng đoán mà chưa phải một kết luận khoa học. Vấn đề quá lớn. Chúng tôi không có tham vọng giải quyết ở đây. Để chứng minh Hàn Mặc Tử là độc đáo xin làm một vài sự so sánh tiếp.
Qua Lửa thiêng và qua các tập thơ in sau 1945, Huy Cận thường được coi là có hồn thơ rộng mở ra đến vũ trụ. Giới thiệu thơ Việt Nam ra nước ngoài, Chế Lan Viên bảo Huy Cận vốn "thích các thế kỷ, thích các vòm trời", còn Xuân Diệu thì từ 1940 đã cho là ở người bạn mình có cái "nghiêng tai kỳ diệu".
Nhưng xem ra, thơ Huy Cận vẫn quá lành, con người trong thơ Huy Cận vẫn ở ngoài mà chưa đạt tới sự hòa nhập với vũ trụ, chưa bao giờ cả gan lang thang đi tìm bí mật của cái vũ trụ hoang tưởng đó như trong thơ Hàn Mặc Tử.
Huy Cận thường xuyên bắt gặp ở thiên nhiên một sự thông cảm. Mặc dù là một cái gì bát ngát xa lạ, song vũ trụ trong thơ Huy Cận khô ráo, trong sáng, thanh sạch, và thật dễ dàng chấp nhận con người. Đây là mấy câu thơ tiêu biểu:
Về phần mình, Hàn Mặc Tử không có điều kiện mà cũng không tính chuyện lấy thơ mình ra đối diện với cả không gian thời gian cao rộng. Hàn Mặc Tử chỉ lạ hóa ngay cái thiên nhiên sát kề bên mình. Nhưng đó là cái thiên nhiên ma quái, bí mật, thiên nhiên ướt át nhày nhụa lại nhiều bóng tối và những khoảng trống kỳ lạ, khiến người sống trong đó không bao giờ cảm thấy yên ổn. Cảm giác về sự hài hòa rất quen thuộc trong thơ Huy Cận. Bao trùm ở Lửa thiêng là cái tự bằng lòng, cái thanh thản thoải mái khi tiếp xúc với vũ trụ. Cảm giác ấy hết sức xa lạ với Hàn Mặc Tử. Luôn luôn ở Hàn Mặc Tử chỉ là xao xuyến bồn chồn, tưởng là mất mà lại thấy, tưởng là cầm nắm được mà lại trôi đi bay biến.
Thỉnh thoảng, có nói tới Thượng đế thì Huy Cận đã biết ngay rằng Thượng đế sẽ an ủi, vỗ về tâm hồn mình.
Hàn Mặc Tử không tính chuyện kéo Thượng đế về với cuộc sống phàm trần mà chơi vơi đuổi theo Thượng đế và trong cuộc truy đuổi đó, sẵn sàng thánh hóa.
Giữa hai nhà thơ này đã có bao nhiêu duyên nợ. Hơn thế nữa, người ta bảo họ là cùng trường phái với nhau (đây là nói trong phạm vi thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng). Điều ấy có lý do của nó: Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng muốn tạo ra một thế giới phi hiện thực, như Hàn Mặc Tử đã sống nó trong Đau thương, Xuân như ý. Họ chỉ khác nhau ở con đường đi tới thế giới ấy. Trong khi Hàn Mặc Tử tìm thấy nó trong mê man mê sảng, thì Chế Lan Viên có được nó bằng cách đẩy lý trí của mình đến cùng. Nói một cách hình ảnh: một bên Hàn Mặc Tử đi vào cõi hư vô như một con chiên ngoan đạo, áo quần tơi tả mà đi, chân đất mà đi, vấp ngã lại đứng dậy bước thấp bước cao đi tiếp; còn bên kia là Chế Lan Viên khôn ngoan tỉnh táo, tránh từng vũng nước nhỏ, từng quãng dốc trơn, đi theo lớp lang rành mạch, bước bước nào chắc bước ấy, thậm chí có ngã cũng là biết trước sẽ ngã. Nếu Hàn Mặc Tử đã đi là không trở lại thì Chế Lan Viên đi có điều kiện, đi tới rồi lại trở về. Bóng đêm, cuộc sống ban đêm, là một mô típ từng thấy ở nhiều bài thơ của hai thi sĩ, nhưng với Hàn Mặc Tử, đêm trăng này tiếp đêm trăng khác cả cuộc đời là những đêm trăng tiếp nối, còn với Chế Lan Viên, sau ban đêm còn có lúc vừng ô tới, ban ngày hiện ra. Sự kinh dị ở Chế Lan Viên, do đó, chỉ là kinh dị một nửa.
Một câu hỏi rất tiêu biểu cho Chế Lan Viên trong Điêu tàn:
- Ai bảo giùm ta có có ta không?
Không bao giờ có thể có ở Hàn Mặc Tử. Lý do đơn giản là Chế Lan Viên coi việc vòng vèo trong mê lộ của tiềm thức là để vươn tới trí tuệ. Còn Hàn Mặc Tử thì dừng lại vĩnh viễn ở tiềm thức. ở Hàn Mặc Tử chỉ có những triết lý ở dạng lơ lửng ngẫu nhiên và thường vẫn giữ được cái vẻ thơ riêng của nó.
4. Sau hết, xin có một chút liên hệ giữa thơ Nguyễn Bính và thơ Hàn Mặc Tử
Sở dĩ chúng tôi không so sánh vì hai nhà thơ này khác nhau quá.
Nhưng nói thơ họ đều là thơ hay (cả hai, đến hôm nay, đều được bạn đọc săn tìm), điều đó có lôgích không?
Câu trả lời: không có gì là không bình thường ở đây cả. Thơ có hai cực, cực phổ cập và cực siêu thoát. Ví dụ trong thơ Pháp hiện đại, Jacques Prévert như ca dao đồng dao, rất phổ cập, còn Saint John Perse rất siêu thoát, nghĩa là chỉ dành cho một số độc giả chọn lọc và cả hai đều là nhà thơ lớn. S.J.Perse còn được Nobel văn chương nữa. Trường hợp Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử cũng vậy. Lúc nào chúng ta cũng có thể ngâm ngợi vài câu thơ Nguyễn Bính lên và thấy rất gần gũi. Thơ Hàn Mặc Tử tồn tại kiểu khác: chỉ thỉnh thoảng ta mới tìm đến ông. Đó là những lúc lòng ta, trí ta, cách nghĩ về thế giới ta vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường, ta thấy chung quanh quá nhàm chán và cảm thấy muốn được giải thoát. Những lúc ấy, có thể - tôi nói có thể chứ không phải tất yếu trong tất cả mọi trường hợp - thơ Hàn Mặc Tử lại là những giải đáp đích đáng nhất, ông đền bù cho ta, có cảm tưởng ông chỉ ông với ta là đủ rồi. Cái sung sướng của người đọc thơ lúc này là sung sướng đến rợn người.
Nói một cách tổng quát: Nguyễn Bính là nhà thơ rất người, rất hàng ngày. Còn Hàn Mặc Tử là nhà thơ của những lúc ta xuất thần, lúc ta thánh hóa. Những lúc ấy hiếm khi xảy ra nhưng vẫn là có.
Nếu không thể lấy thơ Nguyễn Bính để phủ nhận thơ Hàn Mặc Tử thì cũng tức là không thể nhân danh sự dễ hiểu để phủ nhận những cái ta còn chưa hiểu và chỉ một lúc nào đó mới hiểu, mới thích. Bài học rút ra ở đây; với người làm thơ bên cạnh hướng về sự phổ cập (như Nguyễn Bính) thì hướng về sự siêu thoát (như Hàn Mặc Tử) cũng là cả một hướng đi tốt đẹp. Nó không hứa hẹn sự thành công tức thời nhưng không phải vì thế mà nói là nó thiếu khả năng giúp các nhà thơ gia nhập vào thế giới của các giá trị vĩnh viễn.
Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng.
Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo… nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ.
Hàn Mặc Tử cũng là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của phong trào Thơ mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào Thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực.
Tâm hồn thơ ông đã thăng hoa thành những vần thơ tuyệt diệu, chẳng những gợi cho ta niềm thương cảm còn đem đến cho ta những cảm xúc thẩm mĩ kì thú và niềm tự hào về sức sáng tạo của con người. Quá trình sáng tác thơ của ông đã thâu tóm cả quá trình phát triển của thơ mới từ lãng mạn sang tượng trưng đến siêu thực.
Thế giới nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử là một thế giới đa âm sắc, đầy cá tính sáng tạo, mang tính truyền thống về đề tài nhưng cách tân, hiện đại trong câu chữ, nghệ thuật tạo nên những nét lạ thường, độc đáo. Tiêu biểu như trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc có thể nhận ra dạng kết cấu vừa đứt đoạn, vừa liên kết, nhất quán của mạch thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị nhưng sắc nét.
Với thế giới nghệ thuật ấy, Hàn Mặc Tử đã có những đóng góp mới lạ, tạo một phong cách riêng, một thi pháp riêng, một quan niệm nghệ thuật riêng cho làng thơ Bình Định thời bấy giờ với cái tên đầy ấn tượng: “Trường thơ loạn”. Thật tiếc cho một hồn thơ tài năng nhưng đoản mệnh “Hồn thơ Hàn mặc Tử”.
Nội Thất Asa Home là thương hiệu trực thuộc Công Ty Cổ Phần Asa Group. Hơn 9 năm kinh nghiệm về thiết kế nội thất và thi công nội thất trọn gói. Với đội ngũ kiến trúc sư trẻ năng động, sáng tạo. Xưởng sản xuất đầy đủ trang thiết bị cùng với đội ngũ thợ sản xuất thi công có tay nghề cao. Asa Home mang đến cho khách hàng sự an tâm về chất lượng, thẩm mỹ cũng như giá gốc tại xưởng cho mọi công trình chúng tôi thực hiện. Vói nhiều năm kinh nghiệm chuyên thiết kế nội thất và thi công nội thất trọn gói với thế mạnh như: Thiết kế nội thất chung cư, thiết kế nội thất biệt thự, thiết kế nội thất biệt thự, thiết kế shop, thiết kế spa, thiết kế nhà thuốc tây, thiết kế nhà hàng, thiết kế khách sạn, thiết kế quán cafe… Bắt đầu từ một xưởng mộc ban đầu, tập thể công ty Nội Thất ASA HOME đã không ngừng học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo để tạo nên giá trị hôm nay với một bộ máy vận hành hoàn hảo, bài bản. Sở hữu 2 phân xưởng mộc và 1 phân xưởng cơ khí, quảng cáo tọa lạc tại quận Thủ Đức, TPHCM. Góp phần tạo nên giá trị thiết thực nhất cho khách hàng, xã hội, đất nước. Giải quyết được việc làm cho hàng trăm lao động.
HÀN MẶC TỬ (1912-1940) bậc tài hoa yểu mệnh,thiên tài kiệt xuất của thơ ca hiện đại Việt Nam với một hồn thơ trăng láng lai bất tuyệt rất đặc biệt,hết sức độc đáo,tôi đoan chắc rằng thơ ca nhân loại chúng sinh xưa nay không có một nhà thơ,thi nhân,thi sĩ nào có thể gùn ghè cập kè so sánh !
Ấy vậy mà trong một loại sách văn học lớp 11 của chương trình phổ thông,cái gọi là “Sách giáo viên” được xem như cẩm nang của thầy cô giáo dạy văn,vị giáo sư văn học ở ĐH đã phán về hai câu thơ trăng độc đáo nhứt của bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ của HÀN MẶC TỬ như sau:”Có người đặc biệt ca ngợi hình ảnh nầy ở khổ thơ thứ hai “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.Có chở trăng về kịp tối nay?”.Đó quả là một hình ảnh thơ mộng và đẹp.Nhưng độc đáo thì không phải.”Thuyền gối bãi”,”Thuyền đậu bến”,”Thuyền chở trăng”,những hình ảnh thơ đó thực ra đã trở thành ước lệ được dùng phổ biến trong thơ ca kim cổ (thơ Đỗ Mục,Trương Kế,Nguyễn Trãi,Hồ Chí Minh,Quách Tấn,Yến Lan,Thúc Tề v.v…) ”
Hướng dẫn NỘI DUNG và PHƯƠNG PHÁP giảng dạy “nhằm hổ trợ trực tiếp và thiết thực cho người dạy” theo lời nói đầu của “Sách giáo viên” ấy mà viết như thế về hai câu thơ trên trong bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ của HÀN MẶC TỬ,thật càng làm cho tối và rối thêm! Nhất là đối với thầy cô giáo vốn trước kia chẳng được học bài thơ nầy ở chương trình phổ thông cũng như ở trường ĐHSP ngày ấy!
Người soạn sách đã nhặt từ ra một cách tùy tiện rồi gán ghép nào “Thuyền gối bãi”,Thuyền đậu bến”,”Thuyền chở trăng” đã làm lệch đi hình ảnh thơ của HÀN MẶC TỬ. Do cảm nhận hình ảnh thơ với những chi tiết hiện thực cụ thể như thế nên người soạn sách đã vội phán “độc đáo thì không phải”! Câu chữ trong thơ HÀN MẶC TỬ vốn mơ hồ,chập chờn,hư ảo “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.Có chở trăng về kịp…”. “Thuyền ai” thật phiếm chỉ,mơ hồ không xác định,thật mông lung. “Bến sông trăng” đã là bến mộng. Đọc kĩ toàn bài thơ: “Đó” đối lập với “Đây”(Ở đây sương khói mờ nhân ảnh) đã gieo vào tâm trí người đọc về cõi mộng,cõi mơ ước chứ không chỉ là từ xác lập nơi chốn hiện thực cụ thể nào. Và tiếng gọi bi thiết,chới với “Có chở trăng về kịp…” càng thêm phi thực, hư ảo phiêu linh vô cùng. Thử hỏi các nhà thơ từng có thơ về trăng mà người soạn sách đã liệt kê ra như ở trên có tạo ra được hình ảnh thơ nào về trăng lại chập chờn mộng ảo độc đáo đến như thế,gợi cảm đến như thế?
Vị giáo sư nọ đã đồng hóa hình ảnh thơ rất riêng về trăng của HÀN MẶC TỬ với những hình ảnh thơ “Ước lệ được dùng phổ biến trong thơ ca kim cổ” và chẳng hướng dẫn gợi ý gì thêm,rồi lại đưa ra hàng loạt nhà thơ xưa nay viết về trăng,thật chẳng khác gì tung hỏa mù!
Lẽ nào ánh trăng thanh thản ung dung lạc quan tin tưởng trong “Yên ba thâm xứ đàm quân sự/Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Giữa dòng bàn bạc việc quan/Khuya vế bát ngát trăng ngân đày thuyền) của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chi Minh cũng là ánh trăng”Giang nguyệt minh”,”Nguyệt mãn thuyền” trong thơ đời Đường của Trung Quốc xưa?
Lẽ nào hình ảnh trăng trong trong hai câu thơ trên của HÀN MẶC TỬ cũng giống như hình ảnh trăng trong thơ Hồ Chí Minh? Lẽ nào hình ảnh”Thuyền ai đậu bến sông trăng…Có chở trăng về kịp…” của HÀN MẶC TỬ lại không ẩn chứa cảm xúc xao xuyến,náo nức,khao khát hạnh phúc tình yêu của “cái tôi” thời đại Thơ Mới?
Nhà phê bình Hoài Thanh ( trước CM tháng 8,1945) đã từng có lời bình rất đáng suy ngẫm (để học tập) về hỉnh ảnh con cò trong thơ ca : “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay trong ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân có sự cách biệt của hơn ngàn năm và của hai thế giới.” (Thế giới quan cổ điển và thế giới quan hiện đai)
Hơn nữa,vị giáo sư nọ không đặt gắn hình ảnh “Thuyền ai đậu bến sông trăng…” vào trong toàn bài thơ,vào hồn thơ tài hoa ảo mộng HÀN MẶC TỬ. Xuyên suốt bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ không chỉ “Thuyền ai…” mà nào”Vườn ai…” và rồi “Ai biết tình ai…” Tất cả tạo nên một hệ thống phiếm chỉ,bàng bạc,mông lung mơ hồ mà lại day dứt ám chỉ đến nghẹn ngào trong con tim không thể gọi tên! Trước khi dựng hình ảnh trăng bến mộng nầy,HÀN MẶC TỬ đã tê tái con tim cho cảnh chia lìa “Gió theo lối gió,mây đường mây”,anh đường anh,em đường em,không còn chung lối mộng nữa rồi! Thật là nghìn trùng xa cách,xa cách trong không gian,xa cách trong thời gian,xa cách trong tâm hồn người thơ đang ám ảnh cái chết,giây phút lìa đời! Hình ảnh thơ trăng hết sức kỳ lạ,mang hồn vía thơ HÀN MẶC TỬ xuất hiện trong khoảnh khắc chấn động tâm tư ấy,người soạn sách có nắm bắt cảm nhận mảy may nào không? “Trữ tình HÀN MẶC TỬ là gợi cảm chứ không phải là truyền cảm.Nhà thơ không truyền thẳng cảm xúc của mình tới độc giả nhờ phương tiện ngôn ngữ,mà bằng bản thân ngôn ngữ thức dậy thứ năng lượng đó vốn tiềm ẩn trong mỗi độc giả,vì vậy mà cảm xúc thẩm mĩ của người đọc no đủ hơn,sâu sắc hơn bởi như tránh được một sự áp đặt từ bên ngoài.” (Đỗ Lai Thúy)
Mỗi bạn đọc yêu thơ đến với thơ ca nói chung,với hai câu thơ về trăng nầy của HÀN MẶC TỬ nói riêng (Dù là bạn đọc trẻ tuổi,học trò học văn) phải là người đồng sáng tạo với tác giả,có thể cảm nhận theo cách riêng của mình,nhưng dứt khoát không được chủ quan áp đặt cho rằng hình ảnh thơ trăng nầy không có gì sáng tạo “Độc đáo thì không phải”,và “nó đã trở thành ước lệ được dùng phổ biến trong thơ ca kim cổ”!
Đừng có vì một thần tượng linh thiêng(!),giáo điều nào mà quy chiếu trói buộc thơ,đặc biệt là thơ HÀN MẶC TỬ vào một khuôn,một hướng (thơ Đường…thơ Hồ Chí Minh-đặc biệt một người không ham mê thơ “Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”,làm thơ bộc lộ ngôn chí,cốt để nói chính trị mà thôi!).
Bình giảng thơ như thế là giết chết thơ ca!
Bình giảng thơ như thế là đầu độc,giết chết những tâm hồn trong trẻo hồn nhiên mơ mộng của các em nhỏ học trò thơ ngây!
Từ những vị đại giáo sư cây đa cây đề như thế,đến các lớp thầy cô giáo dạy văn được đào tạo rập khuôn như thế,đừng trách chi học trò ngày nay không thích học môn văn,không muốn thi vào ngành văn ở trường đại học!
Người yêu thơ nào cũng biết : Trăng là một hình tượng thơ độc đáo,hết sức lạ kỳ,vừa mang “màu sắc cụ tượng” vừa mang “màu sắc trừu tượng”,chuyển tải hồn thơ hư linh thần mộng HÀN MẶC TỬ. Đọc toàn bộ thơ văn của HÀN MẶC TỬ, người đọc như lạc vào một thế giới trăng huyền ảo với đủ mọi tầng bậc(Thượng giới,hạ giới,cõi mộng,ngọc tuyền…) lấp lánh phiếu diễu cơ man nào màu sắc,vô lượng,vô biên…!
Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng.
Mỗi ảnh mỗi hình lên phiếu diễu…
Trăng đã trở thành một bầu khí quyển bao bọc vây quanh mọi cảm giác,mọi suy tưởng,chan hòa trong cả thể xác lẫn tâm hồn người thơ! Và trăng xuất hiện trong thơ HÀN MẶC TỬ ở mỗi bài,mỗi đoạn thơ ở mỗi thời khắc tâm trạng khác nhau với mỗi sắc thái biểu cảm tình ý khác nhau của một óc tưởng tượng hết sức độc đáo.
Hình ảnh trăng xuất hiện trong thơ HÀN MẶC TỬ với một tầng số rất cao và biến hóa kỳ ảo vô cùng,có khi hữu thể như có thể nắm bắt được và có khi vô hình mông lung trong cõi phi tưởng xứ rất trừu tượng siêu hình,có khi trong sáng hồn nhiên yêu kiều và có khi mê hoặc điên dại đến kinh hoàng.
+Có khi trăng là biểu tượng cho tâm hồn đẹp trong sáng,trinh trắng,e ấp của tình yêu mới chớm,một tình yêu thơ mộng thanh quý cao thượng vô cầu:
Con trăng mắc cỡ sau cành thông.
+Có khi trăng là biểu tượng cho cái đẹp duyên dáng, tình tứ trong mong chờ đợi yêu:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
+Có khi trăng là biểu tượng cho cái đẹp tuyệt đối chân như:
Ô kìa,bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
+Có khi trăng là biểu tượng cho vàng ngọc châu báu lấp lánh lâu đài tình ái tráng lệ sáng láng đến mê hoặc:
Trăng tan tành rơi xuống một vũng cù lao,
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ.
Trăng,trăng,trăng là trăng,trăng,trăng
Ai mua trăng toi bán trang cho.
+Có khi trăng là biểu tượng cho hồn thơ điên dại kinh hoàng:
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy,
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
Ta hoảng hồn,hoảng vía,ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên.
Và còn biết bao là hình ảnh trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ mang biểu tượng khác nữa,có khi rất siêu hình huyền bí không dễ gì giải mã.Thậm chí trong cùng một hình ảnh trăng nhưng lại gợi lên những hình tượng trăng với những tầng biểu tượng mang ý nghĩa rất khác nhau!.Bởi vì,người đọc,tụng thơ của một nhà thơ mình say mê,luôn phải là người đồng sáng tạo cùng tác giả,làm cho màu sắc trừu tượng của hồn thơ kia trở nên hiển hiện lên màu sắc cụ tượng có thể nắm bắt được.
Xin mời bạn yêu thơ đọc thơ (và cả vị giáo sư văn học đã đỡ đầu cho bao luận án tiến sĩ văn học kia!) đọc lại lời của Thi sĩ HÀN MẶC TỬ:
“Màu sắc,như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây,đều gồm hai tính cách:
Màu sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó,như gấm,như hoa,mà ta rờ được,nắm được với đôi tay (palpable),còn màu sắc trừu tượng là thứ gì nửa thực,nửa hư,nghe,thấy,biết mà không làm chủ được nó,ví dụ:ánh sáng,hương thơm,nhạc vui,không gian,thanh khí…Màu sắc cụ tượng dễ tìm,dễ kiếm;trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo,vì đây là cái đẹp của thơ,và phải có con mắt của thi nhân,của một kẻ siêu phàm,thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng,phép tắc ấy,và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó. Với màu sắc trừu tượng ,thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ tượng . Nghĩa là có thể nắm được một nạm hào quang ,lùa không gian vào vạt áo ,dồn kinh cầu nguyện về phương Nam,cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là… Bắt cái vô hình trở nên hữu hình,khiến cái chết trở nên sống,cho vật câm không còn là câm nữa. Đấy là tất cả nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân,nếu thi nhân là một thiên tài.”
(Trích trong BÍCH KHÊ THI SĨ THẦN LINH,bài tựa thi phẩm TINH HUYẾT của Bích Khê)
Thi sĩ thiên tài đã: “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình,khiến cái chết trở nên sống,cho vật câm không còn câm nữa.” thì người yêu thơ đọc thơ hãy mở hồn mình,đánh thức các giác quan tinh sắc nhứt của mình để cùng rúng động nao nao âm hưởng đồng sáng tạo cùng người thơ! Người yêu thơ đọc thơ,tụng thơ HÀN MẶC TỬ cần nhập tâm quán tưởng để có cái nhìn trong sáng thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng,tinh túy tinh hoa của thơ. Nghĩa là thế nầy: Nhiều khi hình ảnh trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ không còn là hình ảnh trăng của giới tự nhiên dương gian nầy nữa,mà là hình ảnh trăng rất trừu tượng gợi lên ý nghĩa biểu tượng nào đó trong thơ. Mây,gió cũng vậy: “Gió theo lối gió,mây đường mây” không còn là hình ảnh mang màu sắc cụ tượng mà đã hóa thành hình ảnh mang màu sắc trừu tượng gợi lên ý nghĩa biểu tượng cho sự ngăn cách,chia lìa,không cùng chung lối mộng. Cho nên,người yêu thơ đến với hình ảnh thơ trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ cần biết:Phải có một nỗi ám ảnh lạ thường về trăng như thế nào,phải có một trạng thái tinh thần và thể xác rúng động đến lạ thường về trăng như thế nào,mới có thể khiến HÀN MẶC TỬ trào lên đầu ngọn bút những câu thơ về trăng độc đáo lạ thường,hay đẹp đến như thế!
Riêng về hình ảnh trăng trong hai câu thơ trong bài ĐÂY THÔN VĨ DẠ mang biểu tượng về cái đẹp sáng láng nguyên sơ êm đềm của hạnh phúc tình yêu mà nhà thơ đang khao khát mong ước”Có chở trăng về kịp tối nay?”. Nếu chúng ta biết rằng HÀN MẶC TỬ đang có một ám ảnh sâu sắc về cái mong manh mệnh yểu,cuộc đời mình quá ngắn ngủi do đang mắc phải căn bệnh phong,hiểm nghèo,khốc liệt,không có thuốc đặc tri,phải đưa vào trại phong Quy Hòa cách li với đời sống xã hội,và đặc biệt,nếu ta biết rằng hồn thơ HÀN MẶC TỬ yêu thương cuộc đời tha thiết “Ta còn triều mến biết bao người/ Vẻ đẹp xa hoa của cuộc đời…” mà phải run rẩy nuối tiếc trong giây phút sắp chia lìa “Ta trút linh hồn giữa lúc đây,/Gió sầu vô hạn nuối trong cây…”,thì ta mới thấu hiểu,cảm nhận hết được tình ý trong nổi khao khát cháy bỏng về hạnh phúc tình yêu của HÀN MẶC TỬ hiện thể trong hai câu thơ trên.Thật là một nổi niềm khát khao hạnh phúc tình yêu chân thành đến tê tái ,chấn động lòng người!
Cõi mộng “Bến sông trăng” bàng bạc một trời mộng mơ êm đềm hạnh phúc (Đọc thêm “CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG” HMT) và nổi khát khao mộng ước da diết về hạnh phúc tình yêu trong thơ HÀN MẶC TỬ gửi lại qua hai câu thơ trên đây,với hình ảnh trăng độc đáo nầy đã là nổi niềm chung của bao tâm hồn bạn đọc từ bấy đến nay.Bởi vì,hình ảnh thơ trăng độc đáo nầy đã phơi lộ một tâm trạng đau thương tuyệt vọng,người thơ cảm thấy mình bất lực trước cái đẹp,cái hạnh phúc tình yêu tuyệt đối,vô hạn. Trong cõi người ta nầy,ai trong chúng ta không mang tâm trạng khao khát mộng ước vươn tới cái đẹp,cái hạnh phúc tình yêu trọn vẹn,tuyệt đối,vô hạn,vĩnh hằng ấy trong đời? Thi sĩ HÀN MẶC TỬ đã nói hộ cho con tim,khối óc,tâm hồn của mỗi chúng ta trong cuộc đời phù du mà cơm áo điêu linh lao đao lảo đảo nầy! Người yêu thơ đọc thơ,dù ở trình độ nào,có thể không thuộc hết bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ,nhưng đã nhớ và đọc tụng hai câu thơ nầy là vì thế!
Hình ảnh về Thuyền (tình) và Bến (mộng) bàng bạc một màu trăng nguyên sơ êm đềm hạnh phúc,sáng láng phiếu diễu như trong cõi mộng ấy đã góp phần miêu tả,ca ngợi cảnh vật đêm trăng trên dòng Hương giang của xứ Huế đẹp mộng mơ và tình tứ,nhưng ấn tượng sâu xa khó phai mờ,ám ảnh mãi trong tâm hồn người yêu thơ đọc thơ là tiếng gọi vọng lên từ nổi lòng riêng của HÀN MẶC TỬ về một tình yêu đơn phương câm lặng,xót xa trong tuyệt vọng cùng người đẹp xứ Huế mà Thi sĩ đã thầm yêu trộm nhớ thuở nào! Tiếng gọi đò yêu thương chới với,tiếng gọi đò vô thanh độc đáo có một không hai ấy,chứa chan bao là khao khát yêu thương giữa trời trăng hư ảo ấy sẽ đồng vọng ngân dội mãi nơi tầng sâu kín nhất trong tâm hồn người đọc hôm nay và mai sau!
Qua hai câu thơ về trăng trong bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ của HÀN MẶC TỬ,từ sự phê phán cách giảng bình hủ nút bắt bướm bỏ hộp cho có “tính tư tưởng” của vị quan thầy văn học (Rất nhiều vị quan thầy văn hoc nghệ thuật như thế trong thời đại nầy!),tôi đã khai mở đưa dẫn người yêu thơ đọc thơ thâm nhập vào hình tượng thơ trăng của HÀN MẶC TỬ chút ít…,nhưng tôi cũng thật sự băn khoăn…! Bởi hình ảnh trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ là một hình tượng thơ rất tượng trưng,trừu tượng,siêu thực không dễ gì hàm hồ nắm bắt lĩnh hội được,và đặc biệt hơn nữa,hồn thơ trăng dị thường HÀN MẶC TỬ đòi hỏi phải cảm nhận bằng một trạng thái tâm hồn khác thường thì mói thâm nhập cõi bí mật huyền diệu thượng thừa của thi ca!
Ta hãy nghe HÀN MẶC TỬ rao giảng:
“Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi,máu tôi,hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và nghĩa là tôi mất trí,đã phát điên. Nàng đánh tôi đau quá,tôi bật ra tiếng khóc,tiếng gào,tiếng rú.”
Và để cho ra đời những vần thơ trăng đẹp thơ mộng mang ý nghĩa biểu tượng cao siêu ấy,Hàn Mặc Tử đã sống,đã cháy đời mình với ngọn lửa thiêng trong từng phút giây: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim,bằng phổi,bằng lệ,bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui,buồn,giận,hờn đến gần đứt sự sống”
Nghĩa là: Chưa “mất trí“,chưa “phát điên”,chưa bị “Nàng đánh tôi đau quá”,chưa biết thế nào là “đến gần đứt sự sống” thì chưa bao giờ hiểu thơ HÀN MẶC TỬ,và đừng nói chi đến giảng bình thơ HÀN MẶC TỬ!
Ta hãy nghe chính HÀN MẶC TỬ viết mở đầu cho tác phẩm CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG:
“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu,ánh sáng càng thêm kỳ ảo thơm thơm,và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say… Trăng rằm trung thu: Một đêm siêu hình,vô lượng,tượng trưng của một mùa ao ước…hiện hình của một mùa khoái lạc chê chán…”
Trăng rằm trung thu sáng trưng,vằng vặc,trong lành,thanh khiết như một tấm gương trong.Đó là hình ảnh mang màu sắc cụ tượng:
“Trung thu trăng sáng như gương” (Hồ Chí Minh)
Trăng rằm trung thu:”Một đêm siêu hình,vô lượng,tượng trưng của một mùa ao ước..hiện hình của một mùa khoái lạc chê chán…” Hình ảnh,câu chữ trong thơ văn HÀN MẶC TỬ mang “màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo ra”,và cũng hết sức khó hiểu,”khó cảm nhận cái đẹp thiêng liêng,phép tắc ấy”. Một đêm siêu hình của HÀN MẶC TỬ không phải là ,không liên quan đến cái gọi là Siêu Hình Học trong triết học Tây phương,mà trái ngược lại hoàn toàn,nó xô ngã nhào cái nguyên lý tối thượng và tối hậu “Principe de raison suffisante “,cái nguyên lý của lý trí tự túc nầy đã điều động thống trị toàn thể văn hóa và văn minh Tây phương,tất cả triết học,thần học,khoa học và nhất là nó thống trị tất cả các khuynh hướng phê bình văn hóa văn nghệ Tây phương từ cổ chí kim từ,từ cổ đai đến hiện đai đến hậu hiện đại… .Tất cả đều kẹt dính vào đầu óc suy luận biện biệt cửa quỉ nhà ma phân biệt nhị nguyên,nhị tướng : Có-Không, bản thể-hiện tượng,hữu sản-vô sản,chân lý-phi chân lý,nghệ thuật-phi nghệ thuật…Nghĩa là phải “Mất trí”,”Phát điên”. “Một đêm siêu hình” của HÀN MẶC TỬ là một đêm tràn trề ánh sáng hào quang của mùa trăng bát ngát với khoái lạc chê chán của trời ao ước,đắm say trong hoan lạc diệu ngọt thiên đường hạnh phúc siêu thoát;nó siêu vượt chân trời lý trí,giải trừ hết mọi kiến thức trói buộc (Xin đọc Krishnamurti) hay nhảy thẳng vào Trung Quán – Long Thọ của nhà Phật,phá tan bức tường “ngã không pháp hữu”,hay hòa nhập theo Đạo Huyền Không của Lão Trang không còn phân biệt… Thật khó diễn đạt về cái “Một đêm siêu hình”,cũng giống như không thể đứng nhìn sông trăng mà nói,mà phân tích,mà giải thích,hãy nhảy ùm xuống dòng sông trăng bơi lội,”bắt chước Lý Thái Bạch đại la tiên vồ trăng” (HÀN MẶC TỬ) ,hòa nhập bằng chính trực giác tâm linh của mình để tự cảm nghiệm cho ra áo nghĩa thơ!
Và giữa trời trăng mây nước CHIÊM BAO VÀ SỰ THỰC nầy (Nhan đề một tác phẩm của HÀN MẶC TỬ) ,Thi sĩ đã đánh thức người yêu thơ đọc thơ: “Hỡi quý nhân,người có nghe thấy điều gì mới lạ,tinh khôi,reo lên,hiện lên và sử linh tư tưởng của người?”
Đó là con đường,dòng chảy của thế giới tâm hồn,tâm linh trong đêm siêu hình huyền bí theo trực giác tâm linh của HÀN MẶC TỬ. Thi sĩ đã nói về trạng thái tinh thần khi làm thơ: “Khi ngòi bút của tôi đã thấm nhuần những ý nghĩ cao cường,truyền sang bởi điện tinh truyền của trí tuệ…” …”Như có ma lực vô song xô tôi đến bờ huyền diệu.” Trong những giây phút xuất thần hồn thơ trào dâng lai láng ấy,Thi sĩ đã tự phơi lộ: “Tôi phải tự giảng: Đang khi trăng,sao,mây khói dần cao hòa hợp thành khí hạo nhiên,tôi không thở bằng phổi nữa,tôi thở bằng hơi thở tinh sạch của hồn tôi.”…”Từ sự thực đi tới bào ảnh,từ bào ảnh đến huyền diệu và từ huyền diệu đi tới chiêm bao.Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực,bị ánh sáng của chiêm bao vây riết.”
Nghĩa là hồn thơ của HÀN MẶC TỬ đã hòa nhập vào cõi bờ “Sử linh tư tưởng”,thoát ly hoàn toàn dòng chảy lịch sử tháng năm của xã hội loài người xưa nay. Cho nên,cõi thơ HÀN MẶC TỬ đã siêu vượt các phạm trù thời gian,không gian,hệ thống tư tưởng văn hóa của xã hội loài người xưa nay,mà đó là cõi thơ của “Một đêm siêu hình”,chân trời của “Sử linh tư tưởng”,một Cõi Thơ Thuần Túy giữa “Nguồn Trong Trẻo” (Chữ của HMT) cho tình yêu và tôn giáo..Chỉ có hồn thơ ấy mời có thể :
Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất.
Và,trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ là trăng trong cõi bờ”Sử linh tư tưởng” (Có nơi HMT sử dụng từ “Tơ Tưởng”) của “Một đêm siêu hình” ấy.
(Xin đọc thêm:”MỘT ĐÊM SIÊU HÌNH VỚI HÀN MẶC TỬ…” của PHẠM CÔNG THIỆN ,Nhà xuất bản Viên Thông,Long Beah,California U.S.A, 2000)
HÀN MẶC TỬ nói về “BÍCH KHÊ THI SĨ THẦN LINH”,nhưng cũng là nói về chính mình: “Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần,thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sáng phong tình và thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền diệu cám dỗ được ngụ quan của người trần?” …”Sự say mê,tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến huyền diệu. Ở đấy,sự mường tượng của thi nhân lại dồi dào hơn nữa,người ta chỉ gặp toàn âm thanh ngả ngớn,với muôn thứ xạ hương bay lẵng lơ trong lồng nhạc,trong khi có hằng hà sa số là ánh hào quang va vào nhạc,chạm nhằm không khí lạ.”
Đó là Trời Cao Cả trong Mơ Ước một Mùa Trăng Bát Ngát của Thi sĩ :“Không có sự say đắm nào ở phương xa,hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến đây để sum vầy,gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ ,mùa trăng bát ngát “
Mùa Trăng Bát Ngát ấy không có thực ở cõi hạ giới nầy Mùa Trăng Bát Ngát ấy là ánh sáng hào quang,là hương thơm xạ hương,là ánh nhạc hồn hoa của một đêm siêu hình huyền bí vượt ra ngoài nghĩ suy tư tưởng của thế nhân,mà chỉ có trong “sử linh tư tưởng” trong sáng bất nhị,vô biên…Khi ấy,sẽ thấy được “Từng lá trăng rơi trên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng” Và trong ánh trăng sáng láng phiếu diễu nguyên sơ mà rực rỡ hào quang ấy đã soi sáng linh hồn thi nhân:”Soi sáng linh hồn tôi và giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi giam cầm của xác thịt” để thi sĩ “..bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn đời thôi”. Cả một đời sáng tạo dù ngắn ngủi nhưng cháy rực một thứ lửa thiêng của HÀN MẶC TỬ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt dữ dội của hồn người nơi dương thế bao la sầu này như câu chữ HÀN MẶC TỬ sử dụng:”Cái ước mơ vô hạn của một linh hồn khát khao vàng ngọc của trời cao cả”.
Xin nói lại,với HÀN MẶC TỬ,Mùa Trăng Bát Ngát siêu hình huyền bí không có trong cõi thế gian nầy.Cái mùa trăng bát ngát huyền diệu chỉ có ở cõi “Nước Trời Cao Cả” của “Sử Linh Tư Tưởng” trong cõi mộng vĩnh hằng thôi! Hãy nghe HÀN MẶC TỬ tỏ bày: “Tìm mãi cái đẹp không thấy,vì tất cả mọi sự ở thế gian đều tầm thường cả,thi sĩ mới nhận ra rằng chỉ có cái gì đời đời ,cái gì hằng sống (éternité) mới thỏa mãn nổi khát khao thương nhớ vô hạn của thi sĩ” .
Trong thơ, HÀN MẶC TỬ cũng từng bộc lộ như thế:
Anh đứng cách xa hàng thế giới,
. Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.
Người thơ HÀN MẶC TỬ đã từng có những giây phút xuất thần trong sáng tạo thi ca: “Tôi vừa thoát ra khỏi cực lạc giới,toàn thân tôi rung động như một sợi đường tơ.” để cho ra đời những vần thơ trăng siêu thoát bất tuyệt!
Do vậy,đến với trăng trong thơ và hồn thơ trăng của HÀN MẶC TỬ ,người yêu thơ đọc thơ cần phải biết,phải nhớ đến lời khai mở của chính Thi sĩ HÀN MẶC TỬ:
“Cái thơ trên cái thơ khác nữa”
Nghĩa là cõi thơ HÀN MẶC TỬ là cõi thơ siêu thoát linh thánh của Thế Giới Huyền Bí để đi đến chỗ Tuyệt Đích là:Tôn Giáo (HÀN MẶC TỬ đã chú thích:Xin hiểu nghĩa chữ ấy với tất cả tinh thần của nó).
Có hiểu được điều như thế,ta mới hiểu vì sao một thi sĩ theo đạo Thiên Chúa rất thuần thành ngoan đạo đã tụng ca tấu lạy Bà Ave Maria ơn phước cả với một cảm xúc thánh tẩy “Run như run thần tử thấy long nhan,/ Run như run hơi thở chạm tơ vàng.” ,thi sĩ HÀN MẶC TỬ vẫn tư tưởng về thế giới nhiệm mầu của nhà Phật một cách xác quyết: “Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không,chết cũng như sống,gần cũng như xa và hư cũng như thực…Những điều phải trái ấy dầu thế nào,cũng có liên lạc mật thiết và thông cảm nhau.”
Bởi vậy,cảm nhận bình giảng về hình tượng trăng,hồn thơ trăng trong thơ HÀN MẶC TỬ với kẻ phàm phu tròng mắt thịt là điều bất khả,mà lại còn bị che chắn trói buộc bởi học thuyết nầy nọ nhị nguyên nhị tướng …thì càng thêm bất khả!
Lời của Thi sĩ HÀN MẶC TỬ đã viết ta thán lúc còn sống vẫn còn nhắc bảo người yêu thơ đọc thơ : “Thi sĩ rơi xuống cõi đời,bơ vơ,bỡ ngỡ và lạ lùng.Không có lấy một người hiểu mình!”
Đã hơn 70 năm qua,những lời nhiếp dẫn khai lộ của Thi sĩ HÀN MẶC TỬ mà tôi đã nhặt trích lại ở trên,không mấy ai chịu đọc kĩ lưỡng,thật quá hò hững không một chú lưu tâm để mở nếp gấp bước vào cõi thơ “Sử linh tư tưởng” của “Một đêm siêu hình” của hồn thơ HÀN MẶC TỬ ,kể cả nhà phê bình xuất sắc Hoài Thanh,tác giả Thi Nhân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945 ! (Kể chi khi đã dính nhập trói buộc vào học thuyết nầy nọ thì đã lầm lạc rồi!)
Soi chiếu những điều hiểu biết về hồn thơ tài hoa ảo mộng của HÀN MẶC TỬ vào bài thơ ĐÂY THÔN VĨ DẠ ,người yêu thơ đọc thơ mới hiểu ra rằng: Cảnh thôn VĨ DẠ trong bài thơ dường như là cõi thực của mây gió sông nước trời trăng xứ Huế mộng mơ,nhưng đã là cõi ảo mộng,chiêm bao đấy thôi! Từ những chi tiết hình ảnh sắc màu trừu tượng:“Nắng hàng cau nắng mới lên,xanh như ngọc,lá trúc che ngang mặt chữ điền,gió theo lối gió mây đường mây,bến sông trăng,mơ khách đường xa,trắng quá nhìn không ra,sương khói mờ nhân ảnh…” cho đến ý tình hồn thơ đã là mộng ảo,đã được “ánh sáng của chiêm bao vây riết” của “một đêm siêu hình” trong “Sử linh tư tưởng” đấy thôi!
Và hai câu thơ mang cốt cách hồn vía thơ trăng lãng mạn tài hoa ảo mộng HÀN MẶC TỬ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Không chỉ là tiếng gọi đò thất thanh của cái tôi chàng trai HÀN MẶC TỬ khao khát hạnh phúc tinh yêu trong giây phút hoảng loạn tuyệt vọng sắp lìa đời:
Gió sầu vô hạn nuối trong trong cây
Mà còn là nổi niềm mơ ước khao khát chung của thế nhân!
Người yêu thơ đọc thơ cần phải sụp lạy Thi sĩ Thiên tài HÀN MẶC TỬ,bằng tất cả cảm nghiệm đau thương của mình ở thế gian mà “Đau đớn lòng” (Chữ của Đại thi hào Nguyễn Du),Thần Thơ HÀN MẶC TỬ đã đánh thức,đã lay gọi,đã khơi gợi,đã tinh truyền đến hồn ta,đến linh hồn của mọi mọi người đời về một khát vọng tình yêu cháy bỏng,khát vọng hạnh phúc cao đẹp tuyệt đích vô biên,siêu thoát,vĩnh hằng. Một tiếng gọi đò vô thanh vô lượng về hạnh phúc tình yêu cao đẹp trọn vẹn tuyệt đích vô biên vĩnh hằng ở cõi”Sử linh tư tưởng” của “Đêm siêu hính” thần bí ấy ,thuyền ơi có chở niềm vui cực lạc ấy về kịp trong đêm tối dương gian nầy không?! Bởi cuộc đời nầy,cõi dương gian nầy quá phù du ngắn ngủi mà chìm ngập trong bao la sầu đau!
Bạn có nghe ra lời thơ như kinh cầu nguyện cúa HÀN MẶC TỬ? Lời kinh cầu nguyện của các tôn giáo ở thế gian nầy cũng thế thôi?
Ai trong đời ngày đêm sống thao thức ước mong nguyện cầu điều như thế,tâm hồn mình hẳn cao đẹp thánh thiện biết bao!
Đây là bài viết xương máu tâm huyết của tôi với Thi sĩ Thiên tài HÀN MẶC TỬ. Mong bạn thân yêu đọc kĩ và góp cho một vài lời phản hồi nhé !
Tập thơ Đau thương của Hàn Mặc Tử thể hiện hai vũ trụ: vũ trụ hạnh phúc trong Hương thơm và vũ trụ kinh hoàng trong Mật đắng, Máu cuồng và Hồn điên.
Hương thơm là chữ trên đường thơm hương, ngát mộng hạnh phúc của cuộc đời. Mật đắng, Máu cuồng và Hồn điên là thơ tình, tuyệt vọng, hoang loạn, gắn bó với khổ đau, đen, đục của cô đơn, kinh hoàng và cõi chết. Trong vũ trụ thứ hai này, phần lớn thơ Hàn gửi cho trăng, viết về trăng, trăng trở thành đề tài chính : Ngủ với trăng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Một miệng trăng …
Thơ Hàn Mặc Tử: Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên Nghe thêm các bài về Hàn Mặc Tử
Toàn tập Phê Bình Văn Học – Thụy Khuê
Tại sao lại trăng, mà không phải là cái gì khác?
Trăng không phải là ám ảnh của bệnh cùi như Trần Thanh Mại và một số người đã nhận định. Trăng nơi Hàn Mặc Tử có nguồn gốc sâu xa hơn, gắn bó với tuổi thơ. Con người nào cũng gắn bó với ký ức đầu đời : một đứa trẻ bị hành hạ, lớn lên có thể trở thành tội phạm ; kẻ viết văn thường dựa vào ký ức tuổi thơ để xây dựng đời văn. Hàn Mặc Tử là một trường hợp vận dụng tưởng tượng trong ký ức ; và trăng đối với Hàn là nguồi cội của tuổi thơ : Trăng Sa Kỳ.
Nguyễn Bá Tín, viết về động cát Sa Kỳ, thủa nhỏ hai anh em thường đi chơi :“Địa phương gọi là Động, kỳ thực là một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời như mảnh vụn pha lê, chạy dài 4,5 cây số bên bờ đại dương. (…) Vào những đêm trăng sáng thì tuyệt đẹp, nhưng huyền ảo đến rợn người như đi vào một thế giới xa lạ. Dân địa phương không dám băng ngang. Người đi chỉ còn nghe hơi thở của mình và mơ hồ se siết bước chân trên cát giữa vắng lặng hoàn toàn.
Trăng bao phủ tứ phía bằng một ánh sáng lung linh chờn chợn khó phân biệt từ trên trăng toả xuống, hay từ cát trắng chiếu lên. Tơ trăng dầy đặc, mỗi cử động hay di chuyển đều như lùa cả trăng theo.” (trích Hàn Mặc Tử anh tôi, trang 19)
Thiện Nam Nguyễn Bá Tín đã viết về vùng trăng Sa Kỳ của anh mình với một bút pháp đầy thơ mộng. Với Hàn Mạc Tử, trăng Sa Kỳ không còn là trăng nữa mà đã hoá thành thơ. Nói đúng ra, trăng Sa Kỳ là điểm tựa đầu tiên, để Hàn Mặc Tử xây dựng cõi thơ, cõi hư ảo của mình.
Trong bài thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng (có thể coi là bản tuyên ngôn thơ của Hàn Mạc Tử) Hàn đã ghi lại những thắc mắc về bản chất trăng : Cuộc gặp gỡ đầu tiên với trăng đã gây cho cậu bé Nguyễn Trọng Trí những câu hỏi về thơ, đã manh nha trong lòng Trí, một định nghĩa thơ, qua trăng, bằng trăng, coi trăng, như một thực thể sáng tạo :
« Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả… Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăng rằm trung thu : một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chán chê » (Chơi giữa mùa trăng).
Trăng, như thế, đối với Hàn, ngay từ thủa nhỏ, đã thoát khỏi tất cả những ý nghiã thông thường mà chúng ta gán cho vừng trăng, ánh nguyệt. Trăng trở thành thơ, trăng trở thành nhạc. Trăng là thơ và là nhạc, ở Hàn, ngay từ những suy nghĩ đầu tiên của một cậu bé. Và khi lớn lên, trăng sẽ là chia ly, dục lạc, là cõi siêu hình, vô lượng, là sự rung động tận cùng trong tạo tác.
“Chị tôi bỗng reo to lên : Đã gần tới sông Ngân rồi ! Chèo mau lên em! Ta cho thuyền đậu ở bến Hàn giang ! (….)
Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong một ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng ? Chị tôi làm thinh, – mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng. (…) Ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầu nào khác. Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu (…)
«A ha, chị Lễ ơi ! chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa ! » Ngó lại chị tôi và tôi thì quả là trăng thiệt». (Chơi giữa mùa trăng)
Chơi giữa mùa trăng là một bài thơ văn xuôi tuyệt bút, trong đó Hàn Mặc Tử đã giải thích nguồn cội thi ca nơi Hàn và kể lại sự tan biến của hình hài trong trăng và sự hoá thân của trăng thành nước, thành thơ, trong một khung cảnh thần tiên : Hai chị em đi thuyền trên sông, dưới ánh trăng, nhưng tất cả đã bị ảo hoá, tất cả là mơ, là thơ, là họa, là nhạc. Dòng sông của họ ở trên trời hay dưới đất ? Bến mà họ ghé là bến Hàn giang hay bến Ngân hà ? Ánh sáng của họ là sáng trăng hay là một thứ ánh sáng huyền diệu toả ra từ cõi nhạc tiên, trên thiên đàng, vô chung vô thỉ ? Và có lẽ từ khi ấy, từ những cuộc đi chơi dưới trăng Sa Kỳ thủa nhỏ ấy, mà nguồn thơ Hàn luôn luôn bị quyến dụ bởi tầng cao :
Gió nâng khúc hát lên cao vút Vần thơ uốn éo lách rừng mây (Ngủ với trăng).
Đó chính là “lý thuyết thơ” trong vũ trụ mới của Hàn Mặc Tử.
Trăng chính là thơ, là ánh sáng, là màu sắc, là âm thanh, là những giấc mơ triền miên của Hàn từ những ngày thơ ấu, từ thủa trong sáng của những câu thơ đầu đời, từ thời thanh niên đầy sinh lực chưa nhuốm chứng nan y, cho đến khi ngã bệnh : tinh thần và thể xác đớn đau điên loạn của bệnh hủi, trăng vẫn còn đó, và trăng cũng điên dại, bệnh hoạn như Hàn.
Trăng trong thơ Hàn chia hai như tâm hồn Hàn : vì vậy, trong cùng một bài thơ, như bài Say trăng mà có đến hai trăng : trăng tươi, trăng đẹp, trăng của những giấc mơ hạnh phúc.
Nước hoá thành trăng, trăng ra nước, Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm Người trăng ăn vận toàn trăng cả (Say trăng)
Và trăng điên, trăng bệnh, trăng cùi của những cơn ác mộng, trăng thổ huyết trong đêm tối của thể xác và linh hồn :
Gió rít từng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô, Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra (Say trăng)
Từ trăng đẹp đến trăng điên có một biên giới : nước
Từ trăng đẹp đến trăng điên có một biên giới, một cái mốc, một thứ định mệnh, là nước. Nước cũng là một tác nhân quan trọng trong thơ Hàn không kém gì trăng. Hàn sinh ra và lớn lên bên bờ đại dương như trăm nghìn người Việt sống cạnh bờ biển. Việt Nam có bờ biển dài nhất vùng Viễn Đông so với diện tích đất đai. Nhưng văn thơ của chúng ta ít viết về nước. Có lẽ bởi người Việt ít mộng mơ, không thích viễn du chăng ? Duy chỉ có thơ Hàn Mặc Tử là có nước, là ngập nước. Tại sao ?
Vì nước cũng là nguồn thơ ấu của Hàn như trăng. Nhưng nước đối với Hàn còn là nguồn của sợ hãi, của cái chết. Nguyễn Bá Tín kể lại rằng Hàn Mặc Tử rất thích nước và thích tắm biển, nhưng một hôm hai anh em đang bơi, bị gió nồm thổi quá mạnh, «anh Trí đuối sức gần ngất đi, phải nằm ngửa (làm planche) để cho sóng đẩy vào bờ. Trông anh sợ hãi khác thường (…) anh không còn giống anh nữa, với đôi mắt đã lạc thần.
Từ đó anh không tắm biển nữa, sợ nước, ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ như sợ ai nghe (…) Cả nhà đều nghi anh mắc bệnh tâm thần, hay tưởng tượng gì đó, nhưng anh vẫn bình thường, vẫn làm thơ, thức khuya để ghi chép. Nhận xét kỹ, anh có lôi thôi về ăn mặc, ít tắm giặt, phải nhắc nhở anh thay quần áo, nhưng anh thường hay quên, chẳng hạn quần áo thay ra ném bậy bạ, có khi cả tuần không tìm thấy, thì ra đã lọt xuống kẹt rương, chuột đã làm ổ» (Hàn Mặc Tử anh tôi, trang 20-21)
Những lời ghi trên đây của Nguyễn Bá Tín rất quan trọng, nó giải thích tại sao Hàn Mặc Tử sợ nước và sự sợ nước, lười tắm, sẽ dẫn đến bệnh phong sau này. Nhưng nó còn giải thích hiện tượng nữa, là nước như một cái mốc đã xoay chuyển, không những định mệnh của Hàn Mặc Tử mà còn xoay chuyển luôn cả tính cách thơ ca của Hàn nữa : Bệnh phong và thơ của Hàn gắn bó với nước như một căn nguyên khởi thủy của sáng tác và của sự sợ hãi, đã theo Hàn qua tất cả các trạng thái của thể xác và tâm hồn, cho đến chết.
Chưa bao giờ những dòng phân tâm vật chất của Bachelard lại có ý nghiã sâu xa đối với một nhà thơ như thế, những dòng sau đây, tưởng như Bachelard viết riêng cho Hàn Mặc Tử : « Kẻ hiến mình cho nước là kẻ hôn mê thác loạn. Hắn chết dần mỗi phút, chất hắn không ngừng trào ra. Cái chết mỗi ngày không phải là cái chết hoành tráng của lưỡi lửa chọc thủng trời ; mà là cái chết của nước. Nước luôn luôn chảy, nước luôn luôn ngã, nước chết theo chiều nằm xuống» (L’être voué à l’eau est un être en vertige. Il meurt à chaque minute, sans cesse quelque chose de sa substance s’écoule. La mort quotidienne n’est pas la mort exubérante du feu qui perce le ciel de ses flèches ; la mort quotidienne est la mort de l’eau. L’eau coule toujours, l’eau tombe toujours, elle finit toujours en sa mort horizontale). (Trích L’eau et les Rêves, Nước và Mơ, Biblio Essais, trang 13 ).
Hàn Mặc Tử sinh ra và lớn lên bên bờ đại dương, với những bãi cát và những đêm trăng huyền ảo. Trăng và nước trở thành bản thể của Hàn, là chất cấu thành tư tưởng, cấu thành thể xác của Hàn, nhưng trăng và nước còn là hai động lực siêu hình, xây dựng nên thơ Hàn, đồng thời dẫn Hàn về cõi chết.
Khi phân tâm nước, Bachelard nhận thấy, có hai thứ nước : nước trong và nước đục, mà ông gọi là nước nhẹ (eau légère) và nước nặng (eau lourde) tương ứng với niềm vui, nỗi buồn. Nước đã đục không thể trở lại trong, mà luôn luôn chỉ có một chiều duy nhất : từ trong đến đục. Huyền thoại của nước cũng là huyền thoại của con người : đi từ những mộng mơ trong sáng thủa ban đầu «dưới dòng nước chảy trong veo» (Kiều) để đến với đớn đau chia lìa tuyệt vọng « máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao» (Kiều), trong hành trình của Nguyễn Du.
Ở Hàn Mặc Tử, nước cũng đi theo hành trình như thế, nhưng nước của Hàn còn có những biến thể khác, không những chỉ từ trong sang đục, mà còn từ lỏng sang đặc : nước sang trăng ; rồi từ đặc sang lỏng : trăng sang nước, trong bài Huyền ảo :
Từ đầu canh một đến canh tư Tôi thấy trăng mơ biến hoá như Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng Cứ là mỗi phút mỗi nên thơ. (Huyền ảo)
Thoạt đầu, trăng biến thành hương khói, rồi lan ra toả ra toàn diện mặt nước :
Ánh trăng mỏng quá không che nổi Những vẻ xanh xao của mặt hồ Những nét buồn buồn tơ liễu rủ Những lời năn nỉ của hư vô .(Huyền ảo)
Và dần dần trăng hoá thành thành nước, trăng bây giờ là màn sương dầy đặc, trăng trở thành nỗi niềm, thành không gian ngăn cách :
Không gian dầy đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng Mỗi ảnh mỗi hình thêm phiếu diễu Nàng xa tôi quá nói nghe chăng (Huyền ảo)
Hàn Mặc Tử đi vào địa hạt huyền ảo, không do niềm tin tôn giáo
Mặc dù khi bệnh nặng, Hàn đọc kinh cầu nguyện hàng ngày. Cấu trúc huyền ảo sau này biến thành thần linh trong thơ Hàn, có nguyên do vật chất : Ban đầu, sự huyền ảo phát xuất từ sự chuyển từ thể lỏng sang đặc, từ đặc sang lỏng, của những yếu tố trong thiên nhiên, bởi Hàn. Chính khả năng chuyển thể vật chất ấy đã tạo cho thơ Hàn không khí huyền ảo, ma quái, diệu kỳ, như có thần linh.
Còn Đức Mẹ Maria đối với Hàn, không phải là một ý thức thần linh, cũng không phải là ý thức tôn giáo. Bà là đấng cứu khổ cứu nạn, bởi Hàn theo đạo Chúa, nên Hàn cầu Đức Mẹ, nếu Hàn theo đạo Phật, Hàn sẽ cầu Đức Quan Âm. Vì vậy, trong thơ Hàn, Đức Mẹ là bàn tay hằng cứu giúp. Ở chặng cuối cùng của tuyệt vọng, Hàn tìm đến Đức Mẹ như một cứu cánh :
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh! Run như run thần tử thấy long nhan Run như run hơi thở chạm tơ vàng… Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến. (…) Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang (Ave Maria)
Những chữ Phượng Trì, Phượng Trì, được coi như cõi bí mật thần linh, thực ra, có nguyên do đơn thuần như sau : theo lời kể của Nguyễn Bá Tín, một hôm hai anh em đi xem phim chưởng, trong phim có người anh hùng tên là Phượng Trì phi thân lên núi rồi biến mất. “Hai tiếng Phượng Trì ám ảm anh Trí một cách kỳ lạ say đắm… Anh nói: “Phượng Trì, cái tên thật là tuyệt, nghe như bay lên cao, bay lên cao! Hay quá!” (trích Hàn Mặc Tử anh tôi, trang 79). Như vậy, Phượng Trì không phải là Thiên Đàng của cõi Chúa cũng không phải là Giao Trì của Tây Vương Mẫu. Thơ Hàn không gắn bó với tôn giáo, mà gắn bó với chữ và không trung trong hành trình chuyển thể của vật chất.
Bệnh càng nặng, nỗi đau đớn thể xác càng tăng, hình ảnh trong thơ Hàn càng héo hắt thêm, hồn phách rã rời, nước trong của Hàn ngày càng đục thêm, nước bây giờ chính là máu của Hàn và trăng cũng trở thành máu, nước-máu dâng lên thành biển, theo nồng độ đớn đau chết chóc :
Máu tim ta tuôn ra làm bể cả Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ Dâng cao lên, cao tột tới trên trời (Biển hồn ta). Trong những giấc mơ ma quái nhất, Hàn đã thấy : Trăng ngập đầy sông, chảy láng lai. (Cô liêu)
Tình yêu của Hàn gắn bó với thơ và máu.
Tình yêu là da thịt của Hàn kết hợp với huyết lệ của chữ. Thơ tình của Hàn luôn luôn thoát ra ngoài cõi biết của chúng ta, của những kẻ chưa bao giờ đạt tới trạm cuối của cuộc đời. Thơ Hàn là hiện thân của một tình yêu lạ lùng trên giải đất mà chúng ta đang sống. Sóng trong lòng Hàn là sóng thiên triều, kỳ vĩ như những cơn ác mộng triều thiên :
Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết Khi say sưa với lượn sóng triền miên Khi nhận lấy trong thân tâm cay nghiệt Giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng (Biển hồn ta).
Bệnh trọng, người tình xa lánh dần, tất cả đã bỏ Hàn. Mỗi chữ trong thơ trở thành giọt mật đắng. Thơ trở thành những xúc cảm điên cuồng, ngây dại, tuyệt vọng :
Nghe gió là ôm ngang lấy gió Tưởng chừng như trong đó có hương Của người mình nhớ mình thương Nào hay gió tạt chả vương vấn gì Nhớ lắm lúc như si như dại Nhớ làm sao bải hoải chân tay. (Muôn năm sầu thảm)
Những kẻ đã yêu và đã bỏ Hàn không chỉ có phụ nữ, không chỉ là bạn bè, không chỉ người thân, mà còn là tất cả tình đời, tất cả đã bỏ Hàn. Trong không gian hiu quạnh ấy : Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã (Hãy nhập hồn em), Hàn rơi trong cõi trời sâu, thơ Hàn nhỏ xuống thành những giọt huyết lệ :
Họ đã xa rồi khôn nứu lại Lòng thương chưa đã, nếm chưa bưa… Người đi, một nửa hồn tôi mất Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu? Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu (Những giọt lệ)
Thơ Hàn là những giọt lệ của cánh phượng nở trong màu huyết
Tất cả trở thành máu huyết. Và sự rùng rợn đến từ sự chuyển thể từ nước thành tuyết, từ tuyết thành máu, làm cho mê sảng bay lên đến cao tầng của cung Hằng:
Lụa trời ai dệt với ai căng, Ai thả chim bay đến Quảng Hàn Và ai gánh máu đi trên tuyết, Mảnh áo da cừu ngắm nở nang (Cuối thu)
Nước buổi thanh xuân nay đã đông lại thành máu. Thơ tình của Hàn là những lời tình đau thương nhất trong thi ca Việt nam, bởi nó gói trọn cả không gian, cả thiên nhiên vạn vật trong cái đau khổ, gói cả cõi thơ, cả linh hồn, vào một vùng không gian xuất huyết, chết theo với bóng tà ác lặn. Không chỉ có một người thơ đau khổ, không chỉ có một người thơ tan nát cõi lòng, mà cả đến thơ cũng cháy tan, cả đến tiếng, đến lời cũng thoi thóp trên không trung, cả ý, cả nhớ… tất cả đều tan tác dẫy chết trong vũng máu hoàng hôn của cuộc đời và của vũ trụ :
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru Một khối tình nức nở giữa âm u Một hồn đau rã lần theo hương khói Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi Một lời run hoi hóp giữa không trung Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn (Trường tương tư).
Hàn xem Hồn như một người bạn mới
Nước máu bây giờ tràn ngập thơ như khí trời dần dần đông lại trong phổi, làm cho Hàn càng ngày càng nghẹt thở. Thân thể Hàn bị bủa vây bởi sự biến chất từ lỏng sang đặc của tất cả những chất sống trong người Hàn. Trong Hàn chỉ còn những gì bên kia cõi sống và từ đây những giấc mộng của Hàn đã vượt biên thùy cõi sống để sang thế giới bên kia. Từ nay, cho tới lúc mất, Hàn đi chơi với hồn. Hồn trở thành bạn, và trong những cơn chết đi sống lại của bệnh cùi, Hàn xem Hồn như một người bạn mới, một người lạ mới gặp lần đầu :
Hồn là ai ? là ai ? tôi chẳng biết Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng… (Hồn là ai)
Chưa bao giờ trong thi ca có sự phân thân rõ ràng như thế : chia hai thành xác và hồn trong những phút cuối của cuộc sống. Chưa một nhà thơ nào đã ghi lại những giây phút kinh hoàng như Hàn : những giây phút hồn lìa khỏi xác để đi chơi riêng, như hai kẻ cô đơn, rồi khi cơn điên nổi lên, án mạng xẩy ra, xác đã giết chết hồn trong cơn đau cực độ :
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực (Hồn là ai)..
Toàn bộ thơ Hàn là sự chuyển thể vật chất từ lỏng sang đặc và từ đặc sang lỏng. Từ trăng thành nước, từ nước thành thơ, từ thơ thành máu, từ máu thành thơ.
Tìm hiểu vũ trụ thơ của Hàn là tìm hiểu nguyên nhân của sự chuyển thể vật chất đó. Những cõi mộng mà Hàn tạo ra trong thơ, chính là sự gắn bó hữu cơ giữa nước và trăng của một hồn thơ kỳ vĩ, đau thương tột độ trong hồn, trong xác, với bàn tay phù thủy trong thuật luyện kim chữ, đã viết lại hành trình về cõi chết của mình và cũng là của người, của con người :
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên, (Hồn là ai) Không chỉ một lần Hàn trộn máu trong thơ : Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt (Rướm máu)
Mà biết bao lần, mỗi lần là một tuyệt bút, là một đớn đau đến biên thùy của cõi chết :
Lời thơ ngậm cứng không rền rĩ Mà máu tim anh vọt láng lai (Lưu luyến)
Ở cực điểm của đớn đau bệnh hoạn, ai mà chẳng đặt những câu hỏi như Hàn ? Hiện tượng đông đặc của nước và hoá lỏng của đất đá, chính là hiện tượng con người sắp lià trần, nhưng làm sao viết lại được, như Hàn :
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi ? Bao giờ tôi hết được yêu vì Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tợ si? (Những giọt lệ)
Tình yêu tuyệt vọng của người con trai chưa từng biết lạc thú cuộc đời, đã đi đến những điên loạn ngoài cõi biết, của một người đã bị xé tan tành thân xác, trộn trạo các tinh chất trong thân xác mình thành một thứ bột màu, thành một thứ mực thơm, thành một thứ tinh anh của thi ca chưa hề tại thế :
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút, Mỗi lời thơ đều dính não cân ta. Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt, Cho mê man chết điếng cả làn da. Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết, Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết, Cả lòng ai trong mớ chữ rung rinh. (Rướm máu)
Và khi những cơn điên dâng lên, cả hồn lẫn xác đều lâm trận trong cuộc chiến với cô đơn, cái chết, mà âm hưởng vang lên đến cõi thượng từng :
Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng Rung tầng không khí, bạt vi lô.(Cô liêu)
Cuối cùng, rồi hồn và xác rời nhau, mỗi “kẻ” một nơi, để sống trọn niềm cô liêu của mình cho đến “chết”, cái chết có từ vạn kỷ :
Ai đi lẳng lặng trên làn nước Với lại ai ngồi khít cạnh tôi? Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng. Không nói không rằng nín cả hơi! Chao ôi! ghê quá trong tư tưởng Một vũng cô liêu cũ vạn đời. (Cô liêu)
Tất cả đều phát triển một cách tiệm tiến, từ cái điên đến cái chết, và lúc nào nước cũng có mặt, bởi chết là về nước. Tất cả đều đi theo một hành trình tiên định, một hành trình sắp đặt sẵn từ trăng đến nước.
Ở những hơi thở cuối, tất cả trở lại trạng thái khô ráo thủa đầu, người thơ đã đi trọn hành trình : tình thành nước, nước thành máu, rồi máu thành thơ.
Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây – Còn em sao chẳng hay gì cả? (Trút linh hồn)
Nhưng tất cả đã khô rồi, đã biến mất, để lại những lời, những chữ, những dòng tuyệt bút của thi ca, bay rền trong không gian vô định :
Máu đã khô rồi thơ cũng khô Tình ta chết yểu tự bao giờ Từ nay trong gió – trong mây gió Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ (Trút linh hồn)
Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ảnh: Wikipedia
Nỗi đau tận cùng và tình thơ mạnh mẽ đã tạo nên một Hàn Mạc Tử trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét, đó là “một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng”. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hàn Mặc Tử là người tiêu biểu cho giới thanh niên trí thức lúc bấy giờ sống hết mình, cháy hết mình với những gì mình yêu. Với Hàn Mặc Tử đó là thơ, là trăng, là một người con gái cụ thể theo từng giai đoạn. Hàn Mặc Tử đã dâng hiến đời sống chân thành, thảm khốc, ngắn ngủi của mình cho thi ca, đã để “hồn trào ra đầu ngọn bút, mỗi lời thơ đều dính não cân ta”.
Ông đã làm thơ bằng cuộc sống thực, đau đớn, bi thương, bệnh hoạn, khốn cùng. Mỗi lời thơ, mỗi câu từ của ông đều là máu, là xương thịt được xắt ra. Thơ của ông thấm đẫm chất trữ tình chủ đạo của thời đại thi ca đó, nhưng vẻ trữ tình của ông mang nét khác hẳn. Nó không lao thẳng vào cảm xúc người đọc một cách thuần khiết như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, cũng không chỉ mang màu sắc lãng mạn như Xuân Diệu, Huy Cận, Đinh Hùng, Bích Khê…
Nó là sự hòa quyện tài tình của tượng trưng và siêu thực. Vì thế mà thơ Hàn Mặc Tử không “truyền cảm” mà “gợi cảm” sâu xa để người đọc tha hồ suy tưởng rồi run lên vì hay quá, điên quá, táo bạo quá! Chất trữ tình trong thơ ông ban đầu là chất trữ tình cổ điển, với lối so sánh ước lệ và cách gieo vần theo thể Đường luật. Điều đó được thể hiện rõ trong tập “Lệ Thanh thi tập”: “Khóc giùm nhân thế hoa rơi lệ Buồn giúp công danh, dế tạo đàn” (Đêm không ngủ) Tuy nhiên, ngay trong những bài thơ Đường luật ấy, mầm mống của sự cách tân khác biệt đã bắt đầu lộ rõ trong 3 bài thơ “Chùa hoang”, “Gái ở chùa” và “Thức khuya” đăng trên Thực nghiệp Dân báo, được cụ Phan Bội Châu chủ nhân Thi xã Mộng Du họa thơ và đề cao. Đó là những câu thơ tiên phong trong cách tân chữ nghĩa và cách mạng trong tư tưởng: “Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối Gió Thu lọt cửa cọ mài chăn” (Thức khuya) Cũng vẫn là thơ trung đại đấy, nhưng nội dung thơ đã chẳng còn ngâm vịnh gió trăng hay bàn đến hào khí anh hùng, mà bao trùm lên đó là nhục cảm và thân xác, điều gần như cấm kỵ thời bấy giờ lại là hai yếu tố chính trong thơ Hàn Mặc Tử. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, có khi người ta cảm thấy bứt rứt kinh khủng bởi lối nói đậm vẻ phương Đông vừa lộ liễu vừa kín đáo. Thơ ông không áp đặt người đọc phải cảm nhận những gì ông cảm nhận, những con chữ chỉ đóng vai trò đòn bẩy, là phương tiện mở ra những liên tưởng độc đáo, làm bật lên cảm xúc riêng biệt trong mỗi người, từ đó mà người đọc đón nhận những mỹ cảm một cách tròn đầy hơn, đã đời hơn mà reo lên thích thú: “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi” (Bẽn Lẽn) Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ của Hàn Mặc Tử, có những người để lại dấu ấn đậm nét, cũng có những người chỉ là cơn gió thoảng qua, nhưng tất cả đều là những nguồn thơ bất tận, được thi sĩ gửi vào những vần thơ tuyệt tác:
“Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” (Những giọt lệ). Nói như nhà thơ Thanh Thảo, nếu những bậc rong chơi, hời hợt trong thi ca vẫn gọi cái hành trình làm thơ của mình là “một cuộc chơi” thì với Hàn Mặc Tử, “cuộc chơi” ấy là cuộc chơi vãi máu, mửa máu: “Ta nằm trong vùng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng). Rồi cho đến “Thơ điên”, nếu nói điên là một bệnh lý thì cái theo suốt cuộc đời Hàn Mặc Tử làm ra thơ Hàn Mặc Tử đã “điên toàn triệt”, điên từ đầu chí cuối. Còn nếu người ta gọi những dòng thơ bất thường viết ra trong trạng thái không bình thường của ông là những dòng thơ của sự tỉnh ngộ, thì Hàn Mặc Tử “tỉnh toàn triệt”. Thơ Hàn Mặc Tử tỉnh táo đến tận cùng mà ai cũng biết, đi tới tận cùng tỉnh táo người ta sẽ gặp “điên loạn”. Còn nhiều điều lạ lùng trong thơ của Hàn Mặc Tử không thể nào nói hết. Gần đây, nhiều người phát hiện ra nhiều bài thơ của Hàn đọc xuôi, đọc ngược vẫn là thơ; bỏ bớt từ trước, từ sau rồi đọc xuôi, đọc ngược thì vẫn cứ là bài thơ với đầy đủ ý tứ. Rồi có cả những nhà ngôn ngữ đã đưa ra những lý luận ngôn ngữ khác biệt trong thơ ông…
Nói như nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu, “dãy tín hiệu nhấp nháy liên hồi trong “Gái Quê” và một phần của “Đau thương” hiện lên với một gam màu nóng, cảm giác mạnh và dường như chỉ xoáy vào hai điểm nhấn nhạy cảm và gợi tình nhất của của phái đẹp như những nhãn tự trong thơ. Tôi như chợt thấy thơ Hàn Mặc Tử vẽ ra như tranh của Van Gogh. Những người có cuộc đời đớn đau và điên loạn cũng có những suy nghĩ từa tựa nhau”. Giã từ cõi nhân gian vừa lúc 28 tuổi xuân xanh bởi sự nghiệt ngã của tật bệnh, Hàn Mặc Tử đã ra đi trong đau đớn không phải của thể chất mà ở tâm hồn. Trải qua bao thử thách của thời gian, thơ Hàn Mặc Tử vẫn hấp dẫn hậu thế với những tầm đón đợi và tiếp nhận đa chiều. Di sản thi ca của ông đã nhập vào kho tàng văn chương nước nhà, và mỗi khi lật giở lại những dòng thơ của thi nhân, người đọc vẫn tìm thấy một niềm đồng cảm thiêng liêng và vẫn không kìm nén được những xót xa kinh ngạc cùng những rung động lạ thường…
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/9/1912, mất ngày 11/11/1940 tại nhà thương Quy Hòa, thành phố Quy Nhơn, vì bệnh phong. Số phận bi thương và tài năng kỳ lạ. Hai mươi tám năm được sống ở trần gian mà bốn năm cuối đời đau thương vì tật bệnh, Hàn Mặc Tử vẫn đủ dựng một sự nghiệp độc đáo, tạo riêng một trường phái trong cả nền thơ Việt Nam.
Người ta gọi thơ ông là thơ điên. Nhưng những bài được nhiều người biết lại là những bài trong trẻo, trong trẻo bậc nhất so với cả nền thơ hồi ấy: Mùa xuân chín, Đây thôn Vỹ Dạ, Tình quê… Trong trẻo đến mức tạo thành đặc điểm của thơ ông giai đoạn đầu: trời đất tinh khôi, không khí chưa hề bụi bặm, trong nắng có mùi hương, trong gió có âm thanh của nhạc:
Con người như đang trong cõi uyên nguyên của mùa xuân thứ nhất:
Có người trai mới in như Nguyệt
Đôi khi, như một phép màu, hình ảnh giản dị thân quen của đời sống thường ngày bỗng có sức gợi nhớ âm vang, phóng vào rất xa, rất xa, đầy ấn tượng. Chữ nghĩa quen, hình ảnh quen, nhưng cảm giác rất lạ:
Cái nhìn sáng tạo làm giật mình cả trời đất:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Có lẽ cách cảm nhận táo bạo này, khi bằng thị giác, khi bằng xúc giác Da thịt trời ơi trắng rợn mình cộng với sự tự nhận của tác giả khi ông đặt tên tập thơ thứ hai là Thơ điên: Đau thương. Và nhất là ở vài năm cuối đời bút pháp ông lẩn vào siêu thực. Đã một thời gian dài, người ta lúng túng khi bình luận tài năng Hàn Mặc Tử. Tài thì tài rồi, có chỗ còn như thiên tài nhưng chỉ dẫn chứng loanh quanh một số bài trong trẻo đã nói trên. Tác phẩm chọn dạy cho học sinh trung học cũng chỉ Mùa xuân chín, Đây thôn Vỹ Dạ. Nhà phê bình Hoài Thanh, người sành Thơ mới vào bậc nhất, người đã biểu dương và tiên lượng tài năng khá chính xác các nhà thơ tài năng của thời điểm ấy, khi viết đến Hàn Mặc Tử, trong Thi nhân Việt Nam hồi 1941, ông nhận xét đúng mực và có lý từng tác phẩm của Hàn nhưng ông né tránh bình luận bao quát về đóng góp của Hàn trong thế giới thơ điên. Ông kính cẩn thế giới ấy của Hàn nhưng xin phép khoanh lại. Ông viết: Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn. Xuân Diệu, một kiện tướng của phong trào Thơ mới và càng về sau này người ta càng thấy ông cũng rất cự phách trong thẩm định thơ thì có vẻ cảnh giác với chiêu thức từng xảy ra trong giới thơ là lộn sòng cái lập dị vào sự cách tân sáng tạo. Xuân Diệu viết, không nhắm trực tiếp vào Hàn Mặc Tử, nhưng khi đọc người ta nghĩ ngay đến tập thơ Thơ điên: “Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ của những chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười chân vừa nhảy miệng vừa kêu: tôi điên đây, tôi điên đây. Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu".
Buổi đầu làm thơ Hàn Mặc Tử còn viết những bài thơ theo luật Đường, niêm luật tề chỉnh, đối ứng già dặn nhưng hồn thơ thì mới, bạo, lãng mạn.
Năm 19 tuổi được ông già bến Ngự Phan Bội Châu họa thơ và biểu dương.
Hàn Mặc Tử, ngay ở tập Gái quê, tập thơ đầu tiên theo bút pháp Thơ mới, xuất bản năm 1936, tập thơ có nhiều bài bình thường, còn dấu vết của người mới viết nhưng đây đó, đã bộc lộ một cảm xúc lãng mạn vào bậc nhất trong phong trào Thơ mới. Mà lãng mạn đến cùng thì thành siêu thực. Một thứ siêu thực trực tiếp tự ngấm vào giác quan mà thành hiện thực. Đến tập Đau thương, được đặt tên là thơ điên thì những đặc trưng, cả tỉnh lẫn điên của Hàn đều hiện diện. Nhiều câu thơ lạ. Và đẹp. Và rất tinh khôi:
Hàn Mặc Tử lại giàu cảm giác, giàu đến mức lấn sang cả ảo giác: Từ Da thịt trời ơi trắng rợn mình đến Áo em trắng quá nhìn không ra là một bước biến hóa trong cảm nhận giác quan, màu trắng từ trực giác sang ảo giác. Hàn Mặc Tử có cách giao lưu với hư vô ít ai có. Ông nghe trong không gian, cũng bằng ảo giác:
Rơi tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim.
Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Chính cái phẩm chất lãng mạn đến cùng và những giác quan kỳ ảo trời cho ấy đã giúp Hàn Mặc Tử tạo những câu thơ ảo chồng lên ảo, người đời chưa quen, và cũng do tác giả sui, mới gọi nó là thơ điên.
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian.
Đúng ra, lời điên mà ý tỉnh. Cái mảng “điên" nhất là mảng không gian trăng, nhân vật trăng. Trăng thành ám ảnh trong nội tâm thi sĩ. Thử lấy một vài đoạn điển hình “chất điên” Hàn Mặc Tử để thấy mạch tư duy của ông:
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng
Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng
Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vó tan thành vũng đọng vàng khô
Đấy là nỗi đau thương tồn tại trong dạng thức điên dại của ngôn từ vì chỉ ngôn từ điên dại mới nói được đủ cường độ của nỗi đau thương trong cõi giam cầm tật bệnh, cùng đường, tuyệt vọng của một hồn thơ đang tràn đầy niềm ham sống. Nhà thơ khạc hồn ra khỏi xác, xác bất động nên phải cho riêng hồn được phiêu diêu tìm đến xa vời kỳ ảo, nơi có người giặt lụa bên sông Ngân. Lụa là trăng, nước là trăng và người cũng là trăng: Người trăng ăn vận toàn trăng cả/ Gò má riêng thôi lại đỏ hườm. Thơ Hàn Mặc Tử hay nói tới màu đỏ của má, của môi, của hoa: đỏ tươi, đỏ hườm, đỏ máu như những điểm ấm nóng mang vị trần gian trong cảnh sắc lạnh âm u ma quái. Hình ảnh lạ, động từ bạo làm bật dậy những cảm giác sâu, mạnh, ấn tượng không phai nhạt. Trong bài Những giọt lệ 12 câu, mà có tới: Bao giờ mặt nhật tan thành máu/ Và khối lòng tôi đứng tựa si. Lại Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Lại nữa:
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
Hàn Mặc Tử có những ý thơ quái đản, giọng thơ hoảng loạn mà tình thơ rất xót thương, một nỗi xót thương thanh khiết, thấm thía, sâu vời vợi. Lời như mê sảng, như nói nhăng nhưng đọc xong thì ứa nước mắt (Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Cô gái đồng trinh, Trăng vàng trăng ngọc, Hồn là ai...). Bút pháp ấy, ngoài Hàn Mặc Tử ra không thấy ở đâu. Làm thơ mà như bưng hồn mình ròng ròng máu chảy đặt lên trang giấy.
Sau tập Đau thương, thơ Hàn Mặc Tử như nghiêng về tôn giáo (Xuân như ý, Thượng thanh khí) và tình yêu (Cẩm châu duyên). Nhưng không phải là thơ truyền bá tôn giáo hay ca ngợi hạnh phúc của tình yêu. Đây là hai cõi ảo, Hàn Mặc Tử tự tạo cho mình bằng những mảnh vụn của đời thực. Thơ có ý, nhưng không mê đắm hay đúng hơn tác giả phải bày biện chữ để nói ra sự mê đắm chứ người đọc không tự cảm nhận được. Người đọc xót thương khi nhận ra: hai thế giới tự tạo này là nơi nương tựa cuối cùng của hy vọng, nó có sức cưu mang cho sự sống tác giả. Hoài Thanh có nhận xét về tác phẩm này: Hàn Mặc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng. Một nhận xét tế nhị về chỗ hụt hơi của bút pháp. Hàn không thể tự lừa mình để trốn số phận. Tác giả phải đối diện với số phận bi thương của mình nên cái thế giới thần tiên tự tạo ấy mới thành đồng bóng. Nó lộ diện là không thực. Xót thương là ở chỗ ấy.
Không gian dày đặc toàn trăng cả,
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Một nhà thơ thiên tài nhưng yểu mệnh, một kiếp nhân sinh quá ngắn ngủi lại lắm thương đau. Nhưng có lẽ do những bi thương của cuộc đời dành cho số phận mà từ đó những tinh hoa phát tiết làm nên những bài thơ bất hủ mãi mãi với thời gian trong giai đoạn ban đầu của thơ ca cận đại Việt Nam đó là nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Trong cái nhìn tổng thể về gia tài thơ ca của Hàn Mặc Tử để lại, có thể nhận ra những hình tượng chủ thể mà Hàn Mặc Tử nói đến nhiều: Trăng, máu, cuồng điên…
Nhưng đằng sau hiện tượng mật đắng, máu cuồng và hồn điên đau thương bi hận thì “Trăng” là tư tưởng, hình ảnh xuyên suốt, đậm nét trong thi ca Nguyễn Trọng Trí.
Trước hết, có đôi chút về thân thế nhà thơ tài hoa bạc mệnh.
Mãi tận đến bây giờ, vẫn còn có người băn khoăn về cái tên Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử. Bút danh đầu tiên của nhà thơ Nguyễn Trọng Trí là Phong Trần lúc thi sĩ mới 16 tuổi, rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936 đổi thành Hàn Mạc Tử寒摸仔(Chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo) rồi sau đó đổi thành Hàn Mặc Tử寒墨仔 (Chàng trai bút mực). Như vậy để chúng ta thấy một sự việc hiển nhiên khi nói rằng: Nhà thơ Nguyễn Trọng Trí có nhiều bút danh qua từng giai đoạn, nên ta phải gọi cho đúng bút danh phù hợp vào từng thời điểm.
Trăng là đề tài muôn thuở, là nguồn cảm hứng của biết bao văn nhân thi sĩ. Trăng đã có mặt khắp nơi, khắp chốn qua nhiều phương tiện thể hiện: thơ, ca, nhạc, họa. Hình tượng Trăng (Nguyệt) trong thi ca vốn không xa lạ gì. Ngày từ xa xưa và trong thời Thịnh Đường với Đường Tống bát đại gia mà tiêu biểu là Lý Bạch thì nguồn cảm hứng của thi
gia này là Trăng và lưu truyền chết cũng vì Trăng.
Nhìn xuyên suốt thi ca qua từng thời đại từ nguyên sơ mãi đến bây giờ, ta nhận ra một điều là bất cứ thi sĩ nào trong cuộc đời sáng tác thì ít nhất cũng có một bài viết về Trăng.
Đây không phải là một bắt buộc hay một ước lệ mà là sự rung cảm đồng điệu tâm-hồn của bất cứ một ai trước cảnh đẹp nên thơ giữa đêm khuya thanh vắng. Vì vậy mà trên trần gian này, có bao nhiêu thi sĩ thì có bấy nhiêu bài thơ tả cảnh đêm trăng. Có nhà thơ thì tả cảnh trăng mờ bên suối, có nhà thơ thì tả cảnh đêm trăng ngày mùa, nhiều nhà thơ thích tả cảnh trăng chênh chếch đầu núi, một số nhà thơ khác tả cảnh đôi tình nhân hẹn hò dưới ánh trăng khuya, cũng lắm nhà thơ tả cảnh uống rươụ tiêu sầu hay ngồi ngâm thơ vịnh nguyệt
Lý Bạch một trong Đường Tống bát đại gia được lưu hậu thế với nhiều bài thơ, trong đó có bài tiêu biểu viết về Trăng:
Tiên Điền Nguyễn Du trong Kiều thì có đến 63 câu liên quan đến trăng để chuyển tải ý đồ tả người tả cảnh, tâm trạng… trong đó câu:
Nửa in gối chiếc nửa soi dăm trường
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Long lanh tiếng hạc vang vang hận,
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người.
Và Bích Khê, Quách Tấn, Chế Lan Viên ba trong bốn nhà thơ được mệnh danh Bàn Thành Tứ tử ai cũng có nhiều bài thơ về Trăng.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc,Sông đưa lạnh tới bóng trăng run …Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
Và Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài “thói thường tình” ấy.
Thế nhưng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử thể hiện như thế nào?
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện dưới nhiều góc cạnh đôi khi hiển nhiên trần trụi rồi xen lẫn cách thể hiện chìm ẩn ở những góc khuất của tâm hồn nhưng tựu trung có thể nói Hàn Mặc Tử xem ánh trăng trong thơ như một thực thể của tạo hóa ban phát những ánh sáng lung linh, rồi đôi khi nhận ra sự huyền nhiệm lạ kỳ như một thực thể có linh hồn. Dường như nghe đâu đây tiếng vọng của thời gian không gian xen lẫn trong tiếng thổn thức nghẹn ngào của niềm đau vô tận qua từng sự xoay vòng theo quỹ đạo của bóng trăng. Và với nhận thức từ sâu xa của hình bóng, hình ảnh trăng mà thi nhân đã bày tỏ nổi niềm qua từng thời điểm xuất hiện của trăng trên bầu trời đêm cao vut tiếng vọng thinh không để rồi đã hòa nhập cùng: say trăng, giỡn trăng, ôm ấp trăng, lúc nhìn trăng nằm sóng soải….
Được hình tượng hóa như một nổi niềm chơi vơi trong tình yêu trăng bỗng là thực thể gợi cảm. Một cảm xúc bất chợt phô diển qua ngôn ngữ huyền hoặc nhưng lại dể dàng khơi dậy dâng trào lai láng sự chờ đợi của tình yêu:
Trăng nằm sóng soải trên cành liểu
Thấy, cảm nhận được sự mơn trớn vuốt ve vô hình giữa trăng và gió một cách thi vị.
Và bất chợt một lúc nào đó trăng lại trở thành là tinh cầu trong thái dương hệ như một hiển nhiên bình thường:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Ánh trăng mỏng quá không che nổi Những vẻ xanh xao của mặt hồ Những nét buồn buồn tơ liễu rủ Những lời năn nỉ của hư vô.
Đôi lúc trần tục với cái nhìn ve vuốt, mơn trớn cả tạo vật. Cảm giác này được thi nhân thể hiện theo lối ứng xử phương Đông vừa lộ liễu, vừa kín đáo:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Rồi trong bất chợt đau thương uất hận trước những khắc nghiệt tột cùng đến với mình. Thi sĩ đã hoảng loạn nhận ra:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vở tan trong vũng đọng vàng khô
Tự sự trong nỗi cô đơn dai dẵng
Trăng lạnh quá, ánh trăng không sáng mấy
Nhưng rồi nhận ra những tất yếu của cuộc đời như một cõi tạm chỉ có nơi vĩnh hằng là miên viễn.Thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội:
Ta ném mình đi theo gió trăng Lòng ta tản khắp bốn phương trời Cửu trùng là chốn xa xôi lạ Chim én làm sao bay đến nơi?
Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc.
Và muốn đạt đến đỉnh của thể hiện ước muốn vẫn còn đâu đó trong thơ của Hàn Mặc Tử vẫn còn chút vương vấn dọ hệ lụy của nền thi ca cổ điển vào hậu bán thế kỷ 19 đầu thế kỷ thứ 20. Giả từ những ý thơ nguyên thuỷ để theo gót chân nàng thơ thanh tân với những dòng thơ trữ tình, lãng mạn:
Nhưng qua rồi những phút giây tơ tưởng Anh nhìn trăng lỏn lẻn đậu nhành cao Phải giờ này đang lúc em chiêm bao Chính giờ này anh đang yêu em thiệt Em hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
Là sợi đường tơ dịu quá trăng Là bao nhiêu ngọc cũng chưa bằng
Chỉ có trăng sao là bất diệt Cái gì khác nữa thảy đi qua
Thơ em cũng giống lòng em vậy Là nghĩa thơm tho như ánh trăng Mềm mại như lời tơ liễu rủ Âm thầm trong áng gió băn khoăn.
Mộng uyên ương đang khi tim rào rạt Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn giang Nhưng uyên ương khi trăng sao bàng bạc Biến mất rồi, anh thấy khói hương tan.
Để rồi vụn vỡ trong đêm vắng lặng, không gian phủ đầy huyền hoặc ánh sáng đến liêu trai
Cả trời say nhuộm một màu trăng, Và cả lòng tôi chẳng nói rằng. Không một tiếng gì nghe động chạm, Dẫu là tiếng vỡ của sao băng…
Sự mộng tưởng đến thăng hoa khi nghĩ vế cái chết. Không đơn giản như thói thường của cuộc đời: Sinh, lão, bệnh tử.
Xác ta sẽ hút bao nguồn trăng loạn, Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương, Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng, Để trên cao, hồn khỏi lộn màu sương.
Gió tiển đưa ta tới nguyệt thiềm
Ngày làm công nhân đường sắt trên đèo Hải Vân, nhiều lần lũ chúng tôi kéo nhau men theo con đường mòn từ sườn núi xuống khu làng của những người bị bệnh phong là Hoà Vân nằm sát biển. Tận mắt thấy những mảnh đời khổ đau vì căn bệnh hàng đầu của Tứ chứng nan y.
Sau này khi không còn làm đường sắt và nhiều lần thất bại trong mưu tìm một chuyến đi xa.Trắng tay! Tôi xin làm chân phụ xe khách tuyến Đà Nẵng-Quy Nhơn để kiếm sống. Trong tình cờ tôi quen một người Đà Nẵng đang là kỹ thuật viên X.quang tại Bệnh viện Đa khoa Qui Hoà. Và tôi có dịp đến thăm khu trị bệnh phong này.
Ngày xưa do nhận thức không mấy thiện cảm và lánh xa những người mắc bệnh phong, nên chính quyền thường lập ra khu tập trung những người mang căn bệnh này nhằm cách ly với xã hội. Qui Hoà cũng như Hoà Vân đều nằm cách biệt với thế giới bên ngoài và đi lại khó khăn cho những ai muốn đến.
Muốn đến Qui Hoà phải vượt con dốc dài qua gềnh Ráng có tên là Mộng Cầm. Trong một lần đi thăm này tôi được dẫn đi viếng mộ Hàn Mặc Tử. Ngôi mộ nằm ở lưng chừng sườn núi nhìn ra biển. Từ mộ Hàn Mặc Tử nhìn bao quát cả thung lũng có khu làng của những người bệnh phong Qui Hoà. Những đêm trăng sáng, thung lũng lung linh ngời sáng cùng bãi cát trắng trải dài bên cạnh rừng dương liểu. Thánh thót vang lên tiếng dương cầm của các soeur từ ngôi nhà thờ nhỏ nằm ẩn trong hàng cây dương liểu.
Trăng nằm sóng xoải trên cành liểu
Ngày nay, đến viếng mộ Hàn Mặc Tử dể dàng hơn nhiều. Từ khi có con đường tránh qua đèo Cả nối Quy Nhơn với Sông Cầu, Phú Yên. Một con đường tương đối thuận tiện cho đi lại dẫn xuống khu trị phong Qui Hoà, du khách dễ dàng viếng mộ Hàn Mặc Tử giờ đã được trùng tu.
http://phanchautrinh72.vn/hanmac.htm